đẹp hơn, giá thách cưới sẽ cao hơn, cùng sự bảo đảm về kinh tế và địa vị lâu dài. Tuy nhiên, tôi đánh giá cao lòng hiếu khách và sự hào phóng của ông bà hôm nay,” bà ta nói, nhấn mạnh vào sự nghèo nàn của gia đình tôi bằng cách uể oải cử động bàn tay, “số mệnh - trong trường hợp của con gái ông bà - đã mang đến cho ông bà một cơ hội. Nếu người mẹ khéo léo, cô bé tầm thường này sẽ có cơ hội về làm dâu một gia đình ở Thông Khẩu.”
Thông Khẩu!
“Bà nói vậy nghe thật tuyệt,” bố tôi thận trọng bày tỏ ý kiến. “Nhưng nhà tôi thuộc tầng lớp bình dân. Chúng tôi không đủ sức trả thù lao cho bà.”
“Thưa ông,” bà Vương đáp lại ngọt xớt, “nếu chân của tiểu nữ khi lớn lên đúng như tôi hình dung trước, có thể tôi sẽ nhận được khoản thù lao hào phóng từ phía nhà chồng của tiểu nữ. Còn ông cũng sẽ nhận được nhiều đồ sính lễ từ nhà họ. Như ông thấy đấy, hai chúng ta đều có lợi từ thỏa thuận này.”
Bố tôi không nói gì. Ông không bao giờ bàn tới những gì xảy ra trên mảnh đất hoặc cho chúng tôi biết cảm xúc của ông, nhưng tôi nhớ một mùa đông nọ, sau đợt hạn hán, khi gia đình không còn nhiều lương thực dự trữ, bố tôi lên núi đi săn, nhưng thậm chí mấy con thú cũng đã chết đói hết cả. Bố tôi không mang được gì về ngoài một ít rễ đắng, đưa cho mẹ và bà nội nấu canh. Có lẽ lúc này ông đang nhớ lại nỗi hổ thẹn hồi đó và tính toán xem sính lễ của tôi áng chừng được là bao nhiêu và nó sẽ đem lại lợi ích gì cho gia đình tôi.
“Ngoài những điều đó ra,” bà mối tiếp tục, “tôi tin rằng tiểu nữ nhà ta có thể đã đủ tư cách để có một mối quan hệ lão đồng.”
Tôi biết từ này và hiểu được ý nghĩa của nó. Lão đồng là một mối quan hệ hoàn toàn khác với kiểu chị em kết nghĩa. Nó là mối quan hệ giữa hai cô gái ở hai thôn khác nhau và kéo dài suốt cuộc đời họ, trong khi nhóm chị em kết nghĩa thì có tới vài cô gái và sẽ giải tán khi họ đi lấy chồng. Chưa bao giờ, trong quãng đời ngắn ngủi mấy năm trước đó, tôi được gặp một lão đồng hay cho rằng mình cũng có thể có một lão đồng như vậy. Là con gái, mẹ và thím tôi cũng có hội chị em kết nghĩa trong thôn. Chị tôi hiện giờ cũng có hội chị em kết nghĩa, và bà nội tôi có hội chị em kết nghĩa là những người bạn cùng cảnh góa chồng trong thôn Phủ Vĩ - hội chị em kết nghĩa lúc xế chiều. Tôi đã nghĩ trong cuộc đời bình thường tôi cũng sẽ có bạn như họ. Còn có lão đồng là một chuyện hết sức đặc biệt. Lẽ ra tôi phải vui mừng mới đúng, nhưng giống như các chị em khác ở trong phòng, tôi cảm thấy kinh hãi. Đây không phải là chủ đề nên trao đổi trước mặt đàn ông. Tình huống này khác thường đến nỗi bố tôi không kiềm chế được bản thân và ông buột miệng: “Chưa một người phụ nữ nào trong gia đình này từng có một lão đồng.”
“Gia đình ông đã không có nhiều thứ - cho đến giờ,” bà Vương cất giọng khi vừa đứng lên khỏi ghế. “Cứ bàn bạc về việc này trong nhà với nhau, nhưng xin nhớ giùm, cơ hội chẳng phải lúc nào cũng đến gõ cửa nhà ông đâu. Tôi sẽ còn quay lại.”
Bà mối và ông thầy đi khỏi, cả hai đều hứa sẽ quay lại để xem sự tiến triển của tôi. Mẹ và tôi đi lên gác. Ngay khi vừa bước vào buồng phụ nữ, bà quay lại nhìn tôi với một vẻ mặt giống như tôi đã thấy lúc ở căn phòng chính. Rồi, tôi chưa biết nói gì thì bà lấy hết sức giáng cho tôi một cái tát.
“Mày có biết điều này sẽ gây ra bao nhiêu phiền phức cho bố mày không?” bà đay nghiến. Những lời cay nghiệt, nhưng tôi biết cái tát đó là để xua đuổi tà ma và cầu mong điều may mắn. Song rốt cuộc, chẳng có gì đảm bảo rằng đôi bàn chân tôi sẽ trở thành đôi “gót sen ba tấc” cả. Rất có thể mẹ sẽ phạm phải sai lầm với tôi như bà ngoại đã làm với mẹ. Mẹ đã bó đôi chân của chị tôi rất tốt, nhưng ai chẳng nói trước được điều gì. Thay vì trở thành một cô gái có giá, biết đâu tôi lại cũng lảo đảo trên cái gốc cây xù xì, tay luôn phải dang ra để giữ thăng bằng giống như mẹ tôi thì sao.
Mặc dù mặt đau rát, nhưng trong thâm tâm tôi thấy sung sướng. Cái tát đó là hành động đầu tiên thể hiện tình mẫu tử của mẹ, và tôi phải cắn chặt môi để khỏi nhoẻn cười.
Cả ngày hôm đó mẹ không nói một lời nào với tôi. Thay vì thế, bà đi xuống nhà nói chuyện với chú thím, bố và bà nội. Chú tôi là người nhân hậu, nhưng vì là con trai thứ hai nên ông chẳng có mấy chút uy quyền nào trong gia đình. Thím tôi biết những ích lợi có thể mang lại từ vị thế này, nhưng vì lấy con trai thứ, mà lại không sinh được con trai, nên địa vị của thím trong nhà tụt xuống hàng thấp nhất. Mẹ tôi cũng không có địa vị gì nhưng nhìn vào vẻ mặt của mẹ khi bà mối nói chuyện, tôi biết mẹ sẽ nghĩ gì. Bố và bà nội quyết định mọi việc trong nhà, dù cho cả hai đều dễ bị tác động. Những lời của bà mối, tuy báo hiệu điềm lành cho tôi, song nó cũng có nghĩa bố tôi sẽ phải làm việc cật lực để tích lũy của hồi môn xứng đáng cho một cuộc hôn nhân cao giá hơn. Nếu bố không làm theo quyết định của bà mối, ông không chỉ mất thể diện trong thôn mà còn trong cả huyện.
Tôi không biết liệu họ đã thỏa thuận được về số phận của tôi vào ngày hôm đó hay chưa, nhưng trong tâm trí tôi, mọi thứ đều không còn như cũ. Tương lai của Mỹ Nguyệt cũng thay đổi cùng với tương lai của tôi. Tôi lớn hơn Mỹ Nguyệt vài tháng tuổi, nhưng cả nhà quyết định hai đứa tôi sẽ được bó chân cùng lúc với em ba. Mặc dù hàng ngày tôi vẫn làm việc nhà, nhưng tôi không bao giờ còn được đi ra bờ sông cùng anh trai. Tôi cũng không bao giờ còn được cảm thấy dòng nước mát mẻ chạm vào da thịt nữa. Mãi cho đến ngày hôm đó, mẹ chưa bao giờ đánh tôi, nhưng hóa ra đó chỉ là dấu hiệu đầu tiên của nhiều trận đòn nữa trong những năm về sau. Tệ nhất là bố không còn nhìn tôi như ngày nào. Tôi không còn được ngồi trong lòng bố khi ông đang hút tẩu vào buổi tối nữa. Trong phút chốc, từ một con bé vô giá trị tôi đã trở thành một người có thể có ích cho cả nhà.
Những vật dụng để bó chân và đôi giày đặc biệt mẹ thêu để đặt trên bàn thờ Quán Âm đã được cất đi, cả của Mỹ Nguyệt và em ba cũng vậy. Bà Vương bắt đầu định kỳ ghé thăm nhà tôi. Bà ta đến trong kiệu riêng. Bà ta luôn luôn kiểm tra tôi từ đầu tới chân, luôn hỏi tôi về việc nội trợ. Song tôi cũng không thể bảo rằng bà ta tử tế với tôi. Tôi chỉ là một công cụ có lợi cho bà ta mà thôi.
SUỐT MỘT NĂM SAU, việc dạy dỗ tôi bắt đầu được thực hiện nghiêm chỉnh ở buồng phụ nữ, nhưng tôi đã biết trước nhiều thứ. Tôi biết rằng đàn ông hiếm khi vào buồng phụ nữ, nó chỉ dành cho đám đàn bà con gái chúng tôi, là nơi chúng tôi có thể làm việc của mình, và chia sẻ tâm sự.
Tôi biết rằng cả cuộc đời mình sẽ trôi qua trong một căn phòng như thế. Tôi cũng đã biết rằng sự phân biệt giữa nội - bên trong ngôi nhà, và ngoại - khu vực bên ngoài ngôi nhà thuộc về người đàn ông, là vấn đề cốt yếu của xã hội Khổng Giáo. Dù cho bạn giàu hay nghèo, là hoàng đế hay tôi đòi, thì trong nhà phải là nơi dành cho phụ nữ và bên ngoài là dành cho đàn ông. Phụ nữ không nên vượt quá phạm vi nhà cửa, cả trong suy nghĩ lẫn hành động. Tôi cũng hiểu được hai nguyên tắc Khổng Giáo chi phối cuộc sống của giới đàn bà chúng tôi. Nguyên tắc đầu tiên là Tam Tòng: “Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử”. Nguyên tắc thứ hai là Tứ Đức, nêu ra nguyên tắc ứng xử, ăn nói, đi đứng và làm việc của người đàn bà: “Giữ tiết hạnh và đạo khoan hòa; luôn có thái độ điềm tĩnh và chính trực; ăn nói phải dịu dàng và vừa lòng người khác; cử chỉ phải thận trọng và khéo léo; thành thục nội trợ và khâu vá.” Nếu một người con gái không đi trệch khỏi những nguyên tắc như vậy, họ sẽ trở thành người đàn bà đức hạnh.
Việc học tập của tôi giờ đây còn mở rộng sang cả các kỹ năng thực hành. Tôi học cách xâu kim, lựa màu chỉ, khâu những mũi nhỏ và đều nhau. Điều này rất quan trọng, khi Mỹ Nguyệt, em ba và tôi bắt đầu khâu những đôi giày cho chính mình trong suốt hai năm bó chân. Chúng tôi cần những đôi giày đi ban ngày, những đôi dép đặc biệt xỏ khi ngủ, và vài đôi tất chặt. Chúng tôi khâu tuần tự, bắt đầu với những thứ vừa vặn bàn chân mình hiện giờ trước, sau đó tới những thứ nhỏ dần, nhỏ dần.
Quan trọng nhất, thím bắt đầu dạy tôi nữ thư. Vào lúc đó, tôi không hiểu hết lý do vì sao thím lại quan tâm đặc biệt đến tôi. Tôi ngây thơ tin rằng nếu tôi chăm chỉ, tôi sẽ khiến Mỹ Nguyệt chăm chỉ theo. Và nếu chăm chỉ, có lẽ nó sẽ có một cuộc hôn nhân tốt hơn mẹ mình. Nhưng thím tôi thực sự hy vọng đưa kiểu chữ bí mật vào cuộc sống của chúng tôi để Mỹ Nguyệt và tôi có thể biết dùng nó mãi mãi. Tôi không biết điều này gây nên xung đột giữa thím với mẹ và bà nội, hai người đều mù tịt nữ thư, cũng như bố và chú tôi hoàn toàn mù tịt về chữ nghĩa dành cho đàn ông.
Mà tôi cũng chưa nhìn thấy chữ viết dành cho đàn ông nên tôi không thể so sánh được. Nhưng bây giờ tôi có thể nói rằng kiểu chữ của đàn ông là đậm, mỗi ký tự nằm trong một khối vuông, trong khi nữ thư trông giống như chân muỗi, hay chân chim trên cát vậy. Không giống như chữ viết của đàn ông, mỗi ký tự của nữ thư không biểu hiện một từ cụ thể. Những ký tự của nữ thư về bản chất là để biểu thị phát âm. Do đó mỗi ký tự biểu hiện một âm tiết. Vì thế mỗi ký tự có thể tạo ra vỏ âm thanh cho mỗi từ như “tỉa”, “ghép” hay “quả lê”, ngữ cảnh thường là để làm rõ nghĩa. Tuy nhiên, chúng tôi đã phải rất cẩn thận để đảm bảo rằng không hiểu sai nghĩa. Nhiều người - như mẹ và bà nội tôi - chưa bao giờ học loại chữ đó, nhưng họ vẫn biết vài bài hát và vài câu chuyện, nhiều bài có nhịp điệu ta dum, ta dum, ta dum.
Thím chỉ cho tôi những nguyên tắc đặc biệt để sử dụng nữ thư. Nữ thư dùng để viết thư, viết bài hát, viết tiểu sử, viết bài học về bổn phận của người phụ nữ, viết lời khấn Phật Bà, và đương nhiên là cả những chuyện thông thường nữa. Nữ thư có thể được viết bằng bút lông và mực trên giấy hay trên quạt, nó cũng có thể được thêu trên khăn tay hay dệt lên vải. Người ta có thể hát lên trước khán giả là các bà các cô, nhưng cũng có thể chỉ đọc và lưu giữ nó cho riêng mình. Hai nguyên tắc quan trọng nhất đó là: không bao giờ được để cho đàn ông biết nó tồn tại, và không được để họ động chạm vào nó dưới bất kỳ dạng nào.
MỌI CHUYỆN CỨ THẾ DIỄN RA, mỗi ngày, tôi và Mỹ Nguyệt lại được học những kỹ năng mới - cho đến sinh nhật lần thứ bảy của tôi, khi ông thầy quay trở lại. Lần này, ông ta phải lựa một ngày cho cả ba chúng tôi - Mỹ Nguyệt, tôi và em ba, người duy nhất đúng tuổi trong cả ba đứa - để bắt đầu bó chân. Ông hết hèm rồi lại hừm. Ông hỏi chúng tôi tám chữ. Nhưng khi tất cả chúng tôi đều đã nói và làm xong, ông ta bèn định một ngày điển hình của các cô gái trong huyện - ngày hai mươi bốn tháng Tám âm lịch - khi những người sắp bó chân có thể cầu khấn và làm lễ cúng bái lần cuối lên Bà Chúa Chân Nhỏ, nữ thần coi sóc việc bó chân.
Mẹ và thím lại tiếp tục chuẩn bị cho việc bó chân, làm thêm nhiều băng quấn hơn. Họ cho chúng tôi ăn bánh bao nhân đậu đỏ để giúp xương dẻo dai như bánh bao và giúp chúng tôi đạt được cỡ chân không lớn hơn một chiếc bánh bao. Gần ngày bó chân, phụ nữ trong thôn đến thăm chúng tôi trên căn buồng phụ nữ. Các chị em kết nghĩa của chị tôi chúng tôi may mắn, mang tới nhiều kẹo và chúc mừng chúng tôi sắp chính thức bước vào thế giới phụ nữ. Những lời chúc tụng rôm rả khắp căn buồng. Mọi người đều vui vẻ, hát hò, cười đùa, trò chuyện. Bấy giờ tôi mới biết có nhiều thứ mà người ta không được nói. (