BỐN GIA ĐÌNH Ở cẩM ĐIỀN CÙNG NHAU TRÚ dưới một cái cây to, tán cây trải rộng, nhưng cuộc thử thách vẫn chưa kết thúc - không phải chỉ sau hai đêm hay thậm chí một tuần. Năm đó chúng tôi khổ sở chưa từng thấy với tuyết. Lúc nào chúng tôi cũng phải chịu đựng cái lạnh cắt da cắt thịt. Hơi thở biến thành những đám mây tan ngay vào khí núi. Lúc nào chúng tôi cũng thấy đói. Mọi gia đình đều dành dụm lương thực vì không chắc mình sẽ phải di tản bao lâu nữa. Ho, cảm lạnh, và viêm họng lan tràn khắp đoàn người. Đàn ông, đàn bà và trẻ con cứ chết dần chết mòn vì ốm đau và những đêm băng rét liên tiếp không ngừng.
Chân của tôi, và hầu như của tất cả những người đàn bà đang ở trên núi này - đều bị tổn thương nặng trong cuộc chạy trốn. Chúng tôi không có chốn riêng tư nào, vì thế chúng tôi phải mở lớp vải bó chân, rửa ráy rồi bó chân lại ngay trước mặt đám đàn ông con trai. Chúng tôi cũng vượt qua nỗi xấu hổ về những nhu cầu thiết yếu khác của cơ thể, học cách làm những chuyện đó sau các thân cây hay trong những hố xí chung đào tạm. Nhưng, không giống những người đàn bà ở đây, tôi không đi cùng gia đình mình. Tôi nhớ thằng con lớn và mấy đứa nhỏ của tôi đến tuyệt vọng. Tôi luôn luôn lo lắng cho chồng tôi, các em trai chồng tôi, đám em dâu, con của chúng, thậm chí cả đám người ăn kẻ ở - và lo rằng liệu họ đến được phủ Vĩnh Minh để ẩn náu an toàn hay không.
Phải mất gần một tháng trời thì đôi chân tôi mới lành lại để có thể đi bộ mà không chảy máu. Đầu tháng Chạp, tôi định ngày nào cũng sẽ đi tìm anh trai và em trai tôi cùng gia đình của họ, cả chị gái tôi và gia đình chị nữa. Tôi hy vọng ở trên này họ sẽ được an toàn, nhưng làm sao tôi có thể xác định được họ đang ở đâu trong khi có đến cả vạn người di tản vào khắp dãy núi? Ngày nào tôi cũng khoác một tấm chăn lên vai, lẻn ra ngoài, luôn luôn đánh dấu lại đường đi vì biết rõ rằng nếu tôi không tìm được đường về với gia đình Tuyết Hoa chắc chắn tôi sẽ chết.
Một ngày nọ - khi việc tìm kiếm của tôi đã kéo dài chừng hai tuần - tôi tình cờ gặp một nhóm người thôn Cát Đàm trú dưới một mái đá. Tôi hỏi thăm xem họ có biết chị gái tôi không.
“Vâng, vâng, chúng tôi có biết!” một người đàn bà thỏ thẻ.
“Cô ấy bị tách ra khỏi đoàn chúng tôi ngay đêm đầu tiên,” bạn của người đàn bà kia nói. “Nếu cô gặp cô ấy thì bảo cô ấy đến đây với chúng tôi. Chúng tôi còn đủ chỗ cho một gia đình nữa.”
Nhưng một người khác, có vẻ như là trưởng thôn, báo trước rằng họ chỉ còn chỗ cho những người thôn Cát Đàm, đề phòng tôi có ý định gì.
“Tôi hiểu,” tôi đáp. “Nhưng nếu các ông các bà thấy chị ấy, có thể nói với chị ấy là tôi đang tìm chị được không? Tôi là em gái của chị ấy.”
“Em gái của cô ấy sao? Cô là bà Lữ hả?”
“Vâng,” tôi đáp một cách thận trọng. Nếu họ nghĩ tôi có bất cứ thứ gì để nộp cho họ thì họ đã nhầm.
“Người ta đang lên đây tìm cô đấy.”
Nghe vậy, bụng tôi thắt lại. “Họ là ai? Anh, em trai của tôi à?”
Mấy người đàn bà nhìn nhau, rồi nhìn tôi đánh giá. Người dẫn đầu nhóm của họ lại lên tiếng. “Họ tránh không nói mình là ai. Cô cũng biết mọi chuyện ở đây thế nào mà. Một trong số họ là ông chủ. Tôi muốn nói là ông ta có một dáng vóc đẹp đẽ. Y phục và giày của ông ta rất đẹp. Tóc của ông ta rủ xuống trán như thế này này.”
Chồng tôi! Đích thị rồi!
“Ông ta bảo sao? Bây giờ ông ta ở đâu? Làm sao…”
“Chúng tôi không biết, nhưng nếu cô đúng là bà Lữ thì cần biết rằng có một người đàn ông đang tìm cô. Đừng lo.” Người đàn bà tiến lại gần tôi và vỗ nhẹ vào tay tôi. “Ông ấy nói là ông ấy sẽ trở lại.”
Nhưng dù tôi có tìm kiếm thế nào đi nữa, tôi cũng không bao giờ nghe thấy ai nói vậy nữa cả. Chẳng mấy chốc tôi tin rằng những người đàn bà đó vì quá khổ sở nên đã lừa tôi, nhưng khi tôi quay lại nơi tôi gặp họ, một đoàn các gia đình khác đã thế chân họ dưới mái đá. Sau khám phá đó, tôi quay lại trại của mình, không cảm thấy gì ngoài nỗi thất vọng cùng cực. Cứ cho tôi là bà Lữ đi, nhưng nhìn tôi cũng sẽ chẳng ai nhận ra được điều đó. Tấm áo lụa màu hoa oải hương của tôi với hình thêu hoa cúc tinh xảo nay đã rách tả tơi và bẩn thỉu, trong khi đôi giày nhuốm đen máu và mòn vẹt vì bao ngày phải lê bước ở ngoài trời. Tôi chỉ có thể hình dung mặt trời, gió và cái lạnh đang làm gì với khuôn mặt tôi. Giờ đây, ở độ tuổi tám mươi, tôi có thể nhìn lại và nói một cách chắc chắn rằng khi ấy tôi quả là một người đàn bà trẻ phù phiếm và khờ khạo, chỉ nghĩ đến những chuyện vô ích trong khi đói và rét triền miên mới là sự thật khắc nghiệt trước mắt.
Chồng của Tuyết Hoa trở thành người hùng của đám người nhỏ bé chúng tôi. Bởi làm một nghề không sạch sẽ nên anh ta làm nhiều việc cần phải làm, không ai kêu ca cũng chẳng ai cảm ơn. Anh ta nhằm tuổi dậu - hào phóng, hay chỉ trích, hung hăng và nếu cần sẽ sẵn sàng liều mạng. Bản tính của anh ta là nhìn xuống đất để tìm cách tồn tại; anh ta có thể săn bắn, cạo lông lột da thú, nấu nướng, hong khô da thú để chúng tôi dùng giữ ấm người. Anh ta có thể vác về hàng đống củi nặng và nước. Anh ta chẳng bao giờ mệt. Ở đây, anh ta không còn là tên đồ tể nữa mà là vệ sĩ và chiến sĩ. Tuyết Hoa tự hào khi thấy anh ta giống như một thủ lĩnh, còn tôi lúc đó - mà bây giờ cũng vậy - mãi mãi nhớ ơn vì chính những việc làm của anh ta đã cứu sống tôi.
Ái chà! Nhưng còn người mẹ tuổi chuột của anh ta nữa! Bà ta luôn trốn việc và lẩn quanh. Trong tình cảnh tuyệt vọng đường cùng ấy, bà ta vẫn tiếp tục thở ra những lời lăng mạ và kêu ca, thậm chí với những việc nhỏ nhặt nhất. Bà ta luôn ngồi gần đống lửa nhất. Bà ta không bao giờ chịu bỏ chiếc chăn được đưa cho từ đêm đầu tiên và xểnh ra là lại thó một chiếc khác cho đến khi chúng tôi yêu cầu bà ta phải trả lại. Bà ta giấu thức ăn vào ống tay áo, chỉ lôi ra khi bà ta nghĩ chúng tôi không nhìn thấy để đút vụng vào miệng mấy miếng thịt nướng. Người ta vẫn thường nói là chuột thì có tính bè phái. Ngày nào chúng tôi cũng chứng kiến chuyện này. Bà ta liên tục phỉnh nịnh và vận động con trai mình, nhưng bà ta chẳng cần phải làm thế. Đồ tể làm mọi việc mà bất cứ đứa con có hiếu nào cũng sẽ làm. Anh ta vâng lời. Vì thế, khi mụ già đó cứ lải nhải mãi về chuyện bà ta cần nhiều thức ăn hơn con dâu như thế nào, anh ta đảm bảo rằng chính bà ta, chứ không phải vợ mình, được ăn. Là một đứa con có hiếu, tôi không thể tranh cãi về chuyện đó, bởi thế tôi và Tuyết Hoa đành phải chia nhau khẩu phần của tôi. Rồi một hôm, sau khi bao gạo của chúng tôi đã sạch nhẵn, mẹ đồ tể bảo anh ta rằng không nên cho thằng con lớn ăn đồ ăn mà đồ tể săn hay nhặt nhạnh được.
“Cho một đứa yếu ớt như nó ăn thì quá lãng phí,” bà ta nói. “Nó chết đi thì chúng ta càng nhẹ nợ.”
Tôi nhìn thằng bé. Nó mới mười một tuổi, cùng tuổi với đứa con trai đầu của tôi. Nó nhìn bà nội nó với đôi mắt trũng sâu, quá thảm hại để đấu tranh cho chính mình. Tất nhiên Tuyết Hoa sẽ nói gì đó để bênh vực thằng bé. Xét cho cùng nó cũng là đứa con đầu lòng. Nhưng lão đồng của tôi không yêu thằng bé này theo cái cách mà lẽ ra cô phải làm vậy. Đôi mắt cô, kể cả trong khoảnh khắc kinh khủng khi nó bị phó mặc cho thần chết ấy, không hướng về nó mà về đứa con trai thứ hai của cô. Dù thằng con thứ hai của Tuyết Hoa có thông minh, kiên cường, và mạnh mẽ đến mấy thì tôi cũng không thể để mặc cho chuyện này xảy ra với đứa con trai thứ nhất. Điều này là vi phạm truyền thống. Tôi sẽ phải trả lời ông bà tổ tiên như thế nào khi họ hỏi tại làm sao tôi lại để mặc đứa bé chết? Tôi biết chào đón thằng bé tội nghiệp này thế nào đây khi gặp nó ở thế giới bên kia? Là con trai cả, nó đáng được ăn nhiều hơn bất kỳ ai trong chúng tôi, kể cả đồ tể. Vì thế tôi bắt đầu chia khẩu phần của mình cho cả Tuyết Hoa và thằng bé. Khi đồ tể nhận thấy chuyện gì đang diễn ra, anh ta tát thằng con và Tuyết Hoa.
“Đây là thức ăn dành cho bà Lữ.”
Trước khi một trong hai mẹ con Tuyết Hoa kịp trả lời, bà mẹ tuổi chuột của anh ta nhảy xổ vào. “Con trai, tại sao con cũng cho cả ả này ăn? Nó chỉ là người lạ đối với chúng ta thôi mà? Chúng ta chỉ phải nghĩ đến máu mủ nhà mình thôi: con, đứa con trai thứ hai của con và mẹ.”
Đương nhiên không hề có đứa con trai đầu hay Xuân Nguyệt, cả hai đứa đều phải sống nhờ vào những mẩu đầu thừa đuôi thẹo cho đến nay và ngày càng trở nên yếu ớt.
Nhưng lần này đồ tể không đầu hàng trước sức ép của mẹ mình.
“Bà Lữ là khách của chúng ta. Nếu con đưa cô ta còn sống trở về, có lẽ chúng ta sẽ được hậu tạ.”
“Tiền à?” mẹ đồ tể hỏi.
Đúng là một câu hỏi của kẻ đê tiện. Mụ đàn bà đó không thể che giấu nổi bản tính tham lam và hám lợi của mình.
“Có những việc ông chủ Lữ có thể làm cho chúng ta còn giá trị hơn cả tiền bạc.”
Đôi mắt mụ già nheo lại gần như chỉ còn là một kẽ hở khi mụ tính toán việc đó. Trước khi mụ nói, tôi lên tiếng trước, “nếu muốn gia đình tôi hậu tạ anh, thì giờ tôi cần khẩu phần nhiều hơn. Nếu không…” đến đây tôi thay đổi nét mặt, bắt chước vẻ nhăn nhó hầm hè của mấy bà thiếp của bố chồng tôi mà tôi nhớ ra - “tôi sẽ nói lại rằng tôi đã không được gia đình này đối xử tử tế, mà chỉ toàn là hám lợi, thiếu chu đáo, và thô lỗ.”
Hôm đó tôi mới mạo hiểm làm sao! Đồ tể có thể đuổi tôi ra khỏi đoàn người ngay lập tức. Thay vì thế, bất chấp bà mẹ lải nhải ta thán không ngừng, tôi được nhận khẩu phần ăn hậu hĩ nhất, tôi có thể chia cho Tuyết Hoa, đứa con trai đầu của cô và con bé Xuân Nguyệt ăn cùng. Ôi, nhưng giờ thì chúng tôi đói cồn cào ruột gan. Chúng tôi gầy trơ xương - nằm im không buồn nhúc nhích cả ngày, mắt nhắm nghiền, thở một cách khó nhọc, cố tận dụng nốt chút sức tàn. Những cơn bệnh bị xem là vặt vãnh khi còn ở nhà làm số người cứ liên tục giảm. Thức ăn ít ỏi, sức lực cạn kiệt, vài tách trà nóng, không có thuốc để củng cố sức đề kháng, không một ai còn khỏe mạnh để chống lại những mối phiền nhiễu đó nữa. Dù chống chọi tốt hơn, nhưng ít ai trong số chúng tôi còn đủ sức để cựa mình.
Thằng con đầu của Tuyết Hoa tìm cách ở cạnh tôi bất cứ khi nào có thể. Nó không được yêu thương, nhưng nó cũng không hoàn toàn đần độn như gia đình nó vẫn tưởng. Tôi nhớ lại cái ngày tôi và Tuyết Hoa đi đến Miếu Cô Bà để cầu xin sinh được con trai và chúng tôi đã mong con chúng tôi sẽ có khiếu tao nhã và tinh tế. Tôi có thể nhận thấy ở thằng bé tiềm ẩn những điều đó, mặc dù nó không được ăn học đàng hoàng. Tôi không thể dạy nó chữ viết của đàn ông được, nhưng tôi có thể nhắc lại cho nó nghe những gì mà chú Lữ đã dạy con trai tôi. “Năm điều mà người Trung Quốc tôn kính nhất là: Trời, Đất, Hoàng đế, bố mẹ, và thầy…” Khi tôi nhắc lại những bài mà tôi nhớ được, tôi kể cho nó nghe một câu chuyện mang tính giáo huấn mà những người đàn bà ở huyện vẫn lưu truyền. Truyện kể rằng có một người con trai thứ hai đã đỗ đạt làm quan và quay trở lại quê nhà, nhưng tôi thay đổi đôi chút cho phù hợp với hoàn cảnh của cậu bé tội nghiệp.
“Cậu con trai cả chạy ven bờ sông,” tôi bắt đầu kể. “Cậu xanh như tàu lá. Cậu không biết gì về cuộc sống. Cậu sống với cha, mẹ, em trai và em gái. Em trai cậu sẽ theo nghề buôn bán của cha. Cô em gái sẽ đi lấy chồng. Cha mẹ cậu chẳng bao giờ để mắt đến cậu. Khi họ để mắt đến, họ cốc đầu cậu cho đến khi sưng lên như quả dưa.”