ĐÃ SÁU THÁNG TRÔI QUA KỂ TỪ ngày TÔI BỊ bó chân, hai tháng kể từ khi bà nội và em ba mất. Tuyết đã tan, đất đã mềm đi, bà nội và em ba được sửa soạn chôn cất. Có ba chuyện trong cuộc sống của người Dao - không, của tất cả người dân trên đất nước Trung Hoa này - mà hầu hết tiền bạc đều dồn cả vào đó, là: sinh nở, hôn nhân và tang lễ. Tất cả chúng tôi đều mong ước được sinh ra một cách suôn sẻ và có một cuộc hôn nhân tốt đẹp; tất cả chúng tôi đều mong được chết nhẹ nhàng và chôn cất chu đáo. Nhưng số mệnh và hoàn cảnh thực tế mới là cái chi phối khiến ba việc ấy ở mỗi người mỗi khác. Bà nội là người đứng đầu gia đình tôi và đã sống một cuộc sống mẫu mực; em ba thì chưa đạt được điều gì. Bố và chú tôi gom góp tiền trả cho ông thợ đóng quan tài ở Thượng Giang Hư để mua một cỗ áo quan tốt cho bà nội. Bố và chú tự làm lấy cái hộp nhỏ cho em ba. Những chị em kết nghĩa của bà nội tôi đến viếng lần nữa, và sau cùng chúng tôi cũng tổ chức lễ mai táng.
Một lần nữa, tôi lại thấy nhà mình nghèo đến mức nào. Nếu chúng tôi có nhiều tiền hơn, có lẽ bố tôi sẽ dựng bia tưởng niệm quả phụ cho bà nội. Có lẽ bố tôi sẽ đi mời ông thầy về để tìm nơi an táng thích hợp, có phong thủy tốt nhất để chôn cất bà hoặc thuê kiệu để đưa con gái và cháu gái mình, vẫn chưa thể đi bộ quá xa, đến nơi chôn cất. Tất cả những việc ấy đều không thể làm được. Mẹ cõng tôi trên lưng, còn thím cõng Mỹ Nguyệt. Đám tang đơn sơ của chúng tôi đi ra huyệt mộ cách nhà không xa lắm, vẫn nằm trong vùng đất mà bố tôi thuê. Bố và chú tôi quỳ, lạy dập đầu ba lần liên tục. Mẹ tôi ngồi bên nấm mộ mới đắp và xin được tha thứ. Chúng tôi đốt tiền giấy, nhưng không có thứ quà cáp nào khác tặng cho những người đến tham dự ngoài kẹo.
Mặc dù bà nội không thể đọc được nữ thư, bà vẫn còn quyển sổ về ngày thứ ba sau lễ cưới mà bà được tặng nhân ngày cưới từ bao năm trước đây. Những thứ này, cùng mấy món đồ quý giá khác, được hai người chị em kết nghĩa cuối đời của bà nội thu gom lại để đem đốt tại phần mộ, những dòng chữ ấy sẽ theo bà sang thế giới bên kia. Họ cùng khấn bà tôi. “Mong rằng bà sẽ được gặp lại mấy chị em kết nghĩa khác của chúng ta. Ba người sẽ hạnh phúc bên nhau. Đừng quên chúng tôi. Những sợi dây liên kết giữa chúng ta vẫn bền chặt cả khi chốn cực lạc có bị cắt lìa khỏi dương gian. Đó chính là sức mạnh và sự vững bền của tình bạn chúng ta.” Không ai nói gì với em ba. Thậm chí cả anh trai tôi cũng không hề nhắn nhủ bất cứ điều gì. Vì em ba chưa biết viết nên mẹ, thím và chị gái tôi viết một số thông điệp bằng nữ thư để giới thiệu nó với tổ tiên chúng tôi, rồi chúng tôi đốt những thứ đó đi sau khi đám đàn ông đi khỏi.
Mặc dù chúng tôi mới bắt đầu thời kỳ ba năm chịu tang bà nội, nhưng cuộc sống vẫn tiếp diễn theo nếp cũ. Giai đoạn đau đớn nhất của việc bó chân đã qua. Mẹ tôi không còn đánh tôi nhiều như trước nữa, và nỗi đau đớn của việc bó chân cũng giảm bớt đi. Điều tốt nhất đối với tôi và Mỹ Nguyệt bây giờ là ngồi xuống và để đôi chân uốn theo hình dáng mới. Vào buổi sáng sớm, hai đứa tôi - dưới sự giám sát của chị gái - tập làm những mũi thêu mới. Xế trưa, mẹ dạy cho tôi xe sợi bông; đầu buổi chiều, chúng tôi bắt đầu dệt vải. Mỹ Nguyệt và mẹ của nó cũng học những bài tương tự, chỉ có điều theo trình tự ngược lại. Cuối buổi chiều, chúng tôi dốc sức cho việc học nữ thư, thím dạy bọn tôi những từ đơn giản với sự kiên nhẫn và khiếu hài hước tuyệt vời.
Do không phải giám sát việc bó chân của em ba, chị gái tôi, lúc bấy giờ đã mười một tuổi, trở lại với việc học nữ công. Bà Cao, một bà mối trong làng, thường ghé qua để thảo luận về việc Nhận Thân, giai đoạn đầu tiên trong năm giai đoạn xe duyên cho anh trai và chị gái tôi. Bà Cao đã tìm được một cô con gái của một gia đình rất tương xứng với gia đình tôi tại thôn Cao Gia, bên nhà mẹ đẻ của bà Cao, cho anh trai tôi. Quả là một chuyện tốt khi kén được cô con dâu tương lai như vậy, bởi bà Cao đã mai mối nhiều đám giữa hai thôn với nhau đến mức những bức thư viết bằng nữ thư được trao đi gửi lại như thoi đưa. Ngoài ra, thím tôi vốn là người bên Cao Gia. Giờ thì thím lại có thể liên lạc với gia đình mình dễ dàng. Thím hớn hở đến mức suốt mấy ngày liền mọi người thấy thím cười suốt, ngoác cái miệng như vòm hang vĩ đại với hàm răng chỉa ra lởm chởm.
Chị gái tôi, mà ai gặp cũng phải công nhận là dịu dàng và xinh đẹp, sẽ đi làm dâu trong một gia đình khá giả hơn gia đình tôi ở tận thôn Cát Đàm xa xôi. Chúng tôi buồn vì sau này sẽ không còn được gặp chị thường xuyên nữa, nhưng chúng tôi vẫn được sống cùng chị sáu năm nữa trước khi đám cưới được tổ chức, rồi hai hoặc ba năm tiếp theo trước khi chị mãi mãi rời xa chúng tôi. Ở xứ tôi, như người ta vẫn biết, mọi người đều tuân theo tập tục bất lạc phu gia, tức là nàng dâu sẽ chưa về ở hẳn trong nhà chồng cho đến khi có mang.
Bà Cao chẳng giống bà Vương chút nào. Cách ăn mặc của bà ấy phải nói là thô lược. Trong khi bà Vương mặc quần áo bằng lụa thì bà Cao chỉ mặc bộ quần áo vải bông thô kệch. Trong khi bà Vương ăn nói nghe trơn tru như bôi mỡ vào miệng, thì bà Cao cứ oang oang như lệnh vỡ. Bà ta thường bước lên căn buồng phụ nữ, ngồi ghé lên chiếc ghế đẩu, và bảo cho bà ta xem bàn chân của cả mấy cô con gái nhà họ Di chúng tôi. Đương nhiên, chị tôi và Mỹ Nguyệt ngoan ngoãn vâng lời. Còn tôi, dù số phận đã nằm trong sắp đặt của bà Vương, nhưng mẹ vẫn bảo tới đưa chân cho bà ta xem. Bà Cao nhận định: “Khe nứt là phải sâu như những nếp gấp dưới chân của cô bé này này. Nó sẽ khiến chồng con bé cảm thấy sung sướng,” hay “cái gót chân cong xuống thế kia của con bé tựa như cái bao cùng với ngón chân cái thuôn nhọn về phía trước như thế kia sẽ làm chồng nó luôn nhớ tới ‘anh bạn nhỏ’ của mình. Suốt ngày anh chồng may mắn sẽ chỉ nghĩ tới chuyện chăn gối thôi.” Lúc ấy tôi không hiểu bà ta nói như vậy là nghĩa làm sao. Tới khi hiểu được, tôi ngượng chín cả người mỗi khi nghe mẹ và thím nói về chuyện đó. Nhưng họ với bà mối thì lại cười vang. Ba đứa chúng tôi cũng cười góp, nhưng như tôi đã nói, những lời ấy nằm ngoài vốn kinh nghiệm hay sự hiểu biết non nớt của chúng tôi. Năm đó, vào ngày mùng tám tháng Tư âm lịch, hội chị em kết nghĩa của chị tôi tụ họp ở nhà tôi nhân hội Chọi Trâu. Năm cô gái đều chứng tỏ mình đã chuẩn bị để mai này quán xuyến công việc nhà cửa tốt đến mức nào bằng cách cho thuê số lúa mà nhà mình đã cho để thành lập hội chị em kết nghĩa và dùng số tiền kiếm được để chuẩn bị bữa tiệc mừng. Mỗi cô mang một món ăn từ nhà mình tới: món mì, cải xanh với trứng muối, giò heo rưới tương ớt, đậu đũa muối, bánh nếp ngọt. Mọi người còn cùng nhau nấu nhiều món khác nữa, tất cả bọn con gái tập trung lại nặn bánh bao để hấp rồi khi ăn chấm với tương ớt vắt chanh. Họ ăn, cười khúc khích, và trích dẫn những câu chuyện viết bằng nữ thư như “Truyện Tam Cô”, kể về con gái của một nhà giàu có trải qua bao thăng trầm vẫn chung thủy với người chồng nghèo khó, cuối cùng sự chung thủy của họ đã được đền đáp và người chồng được phong quan; hoặc truyện “Nàng tiên cá chép”, kể về một con cá hóa thành một cô gái trẻ xinh tươi, sau đó yêu một chàng học trò thông minh sáng láng, điều đó đã khiến nàng phải hiện hình.
Nhưng truyện họ thích nhất là “Truyện cô gái có ba người anh trai”. Họ không biết tường tận câu chuyện này và họ không nhờ mẹ hát câu xướng và lời đáp, dù mẹ nhớ được khá nhiều từ trong đó. Thay vào đó, các chị em kết nghĩa của chị tôi lại nhờ thím tôi dẫn dắt cả câu chuyện. Mỹ Nguyệt và tôi cũng hùa vào, vì câu chuyện tình yêu đẹp đẽ và có thực này - vừa bi vừa hài - là một cách hay để chúng tôi có thể hát lên những ước nguyện của mình, được biểu lộ thông qua thứ chữ đặc biệt của phụ nữ chúng tôi.
Một người chị em kết nghĩa của thím đã thêu câu chuyện đó lên chiếc khăn tay của bà. Thím tôi lôi mảnh khăn ra rồi cẩn thận mở. Mỹ Nguyệt và tôi xích lại gần, ngồi bên cạnh thím để có thể đọc được những chữ thêu này khi thím hát.
“Ngày xưa, có một cô gái có ba anh trai,” thím bắt đầu hát. “Cả ba đều đã có vợ, nhưng cô gái vẫn chưa lấy chồng. Dù nàng là người đức hạnh và đảm đang, song những người anh không chịu cho nàng của hồi môn. Nàng thật bất hạnh làm sao! Nàng có thể làm gì được đây?”
Giọng mẹ tôi đáp lại. “Nàng quá đau khổ, bèn chạy ra vườn và treo cổ.”
Mỹ Nguyệt, chị tôi, những người bạn của chị, và tôi cùng hát đoạn đồng ca “Người anh cả của nàng bước ra vườn và vờ như không nhìn thấy nàng. Người anh thứ hai bước ra vườn và cũng vờ như không nhìn thấy nàng chết. Người anh thứ ba nhìn thấy, òa khóc, và bồng xác nàng vào nhà.”
Mẹ liếc sang và bắt gặp ánh mắt tôi đang chăm chú nhìn mẹ. Mẹ mỉm cười, hài lòng, có lẽ vì thấy tôi không bỏ sót một từ nào.
Thím bắt đầu lại câu chuyện. “Ngày xưa, có một cô gái có ba anh trai. Khi nàng mất, không ai buồn để ý đến thi thể của nàng. Dù nàng là một cô gái đức hạnh và đảm đang, các anh trai cũng không chịu khâm liệm nàng. Điều này quả thật tàn nhẫn! Điều gì sẽ xảy ra?”
“Khi chết nàng cũng bị lãng quên như lúc sống, cho đến khi thi thể nàng bốc mùi.” Giọng mẹ tôi ngân lên.
Lần nữa bọn tôi lại đồng thanh hát đoạn điệp khúc nổi tiếng. “Người anh cả cho một mảnh vải để bọc thi thể nàng. Người anh hai cho hai mảnh vải để bọc thi thể nàng. Người anh ba mặc cho nàng rất nhiều quần áo để nàng được ấm áp khi sang thế giới bên kia.”
“Ngày xưa có một cô gái có ba người anh” thím tôi tiếp tục. “Giờ đến việc mặc tấm áo vĩnh cửu cho nàng khi nàng đã trở thành hồn ma, các anh nàng không bỏ một xu nào để mua quan tài. Dù nàng là một cô gái đức hạnh và đảm đang, các anh nàng lại là những kẻ keo kiệt. Thật là bất công làm sao! Liệu nàng có thể được yên nghỉ dưới suối vàng?”
“Đơn độc, đơn độc,” mẹ tôi hát, “nàng sẽ sống những tháng ngày ám ảnh.”
Thím tôi dùng ngón tay để chỉ cho chúng tôi từ chữ này đến chữ khác và chúng tôi cố gắng nhìn theo mặc dù chúng tôi chưa đủ nhuần nhuyễn để biết hết các chữ đó. “Người anh cả nói, chúng ta không cần phải chôn nó trong một cái hộp. Nó chết thế nào thì để như thế ấy!” Người anh thứ hai đề nghị, “chúng ta sẽ dùng chiếc hộp cũ trong kho.” Người anh thứ ba nói, “đây là tất cả số tiền mà em có, em sẽ đi mua một cỗ quan tài.”
Khi chúng tôi đến gần đoạn kết, nhịp điệu của câu chuyện trở nên gấp gáp. Thím tôi hát, “ngày xưa có một cô gái có ba anh trai. Họ đã đi xa, nhưng điều gì sẽ xảy ra với cô em gái đây? Người anh cả - tính tình bần tiện; người anh hai - tâm hồn lạnh lùng; chỉ riêng anh ba là có tấm lòng nhân ái.”
Mấy chị em kết nghĩa để tôi và Mỹ Nguyệt kết thúc câu chuyện. “Người anh cả nói, ‘hãy chôn nó ở đây bên đường trâu đi’ ” (có nghĩa là nàng sẽ mãi mãi bị chà đạp). “Người anh thứ hai thì bảo, ‘Hãy chôn nó dưới chân cầu’ ” (có nghĩa là nàng sẽ bị cuốn đi). “Nhưng người anh thứ ba - với trái tim nhân hậu, hiếu nghĩa đủ đường - thì nói, ‘chúng ta sẽ mai táng em gái sau nhà mình để mọi người đều tưởng nhớ đến em,’ thế là cô gái kia, khi sống chẳng được hạnh phúc, cuối cùng cũng tìm được niềm vui ở chốn cực lạc.”
Tôi thích câu chuyện này. Được hát cùng mẹ và những người khác thật là thích, nhưng sau cái chết của bà nội và em ba, tôi đã hiểu rõ hơn về những lời nhắn nhủ của câu chuyện. Câu chuyện cho tôi thấy giá tr