y ra nếu bố mẹ mình không gả mình cho một gã đồ tể? Điều gì sẽ xảy ra nếu mình là con trai? Mình có thể cứu được gia đình mình không? Ôi, Bách Huệ, trước mặt bạn mình cảm thấy hổ thẹn vì hoàn cảnh của mình lúc này…”
“Mình không bao giờ…”
“Từ lúc bạn bước chân vào nhà bố mẹ mình, mình đã thấy sự thương hại của bạn.” Cô lắc đầu để ngăn không cho tôi nói. “Đừng phủ nhận điều đó. Nghe mình nói đã.” Cô ngừng lại một chút trước khi nói tiếp. “Bạn trông thấy mình và bạn nghĩ mình quá sa sút, nhưng những gì xảy ra với mẹ mình còn tệ hơn thế. Khi còn là con gái, mình nhớ mẹ đã khóc ngày đêm vì sầu khổ. Mình tin chắc rằng mẹ muốn chết, nhưng bà không muốn bỏ lại mình. Sau đó, khi mình về ở hẳn nhà chồng, mẹ lại không bỏ mặc bố.”
Tôi nhận ra chuyện này sẽ đi đến đâu vì thế tôi nói, “Mẹ bạn không bao giờ cho phép trái tim mình tuyệt vọng. Bà không bao giờ bỏ cuộc…”
“Bà cùng với bố đi lang thang. Mình sẽ không bao giờ biết được chuyện gì đã xảy ra với họ, nhưng mình biết chắc rằng bà sẽ không bao giờ cho phép mình chết trước khi bố mình mất. Đã mười hai năm trôi qua. Nhiều khi mình cứ tự hỏi nếu như mình đã có thể giúp gì được cho bà, bà có thể đến được với mình không? Mình sẽ trả lời theo cách này. Mình nằm mơ mình lấy chồng và có được hạnh phúc khi tránh xa người cha ốm yếu và người mẹ đau khổ. Mình không hề biết mình sẽ trở thành kẻ ăn mày trong gia đình nhà chồng mình. Sau đó mình học cách làm thế nào để chồng mình mang thức ăn về nhà và mình sẽ được ăn. Bạn thấy đấy, Bách Huệ, có những chuyện mà mọi người không nói với chúng ta về đàn ông. Chúng ta có thể làm họ hạnh phúc nếu chúng ta đem đến cho họ khoái lạc. Và, bạn biết đấy, chúng ta cũng thấy thích mà, nếu chúng ta cứ để chuyện đó xảy ra.”
Cô nói về chuyện ấy nghe như một bà già đang cố dọa dẫm đám con gái trước khi chúng đi lấy chồng.
“Bạn không cần phải nói dối. Mình là lão đồng của bạn. Bạn có thể thành thật.”
Cô rời mắt khỏi những đám mây và trong giây lát nhìn vào tôi như không hề biết tôi là ai. “Bách Huệ,” giọng cô thốt ra nghe thật buồn bã và xúc động - “bạn có tất cả, nhưng bạn cũng chẳng có gì cả.”
Lời cô nói đau như dao cắt, nhưng giờ tôi lại không thể nghĩ về chúng như cô thú nhận. “Chồng mình và mình đã không tuân theo những quy tắc về sự ô uế của người vợ sau khi sinh. Vợ chồng mình muốn có thêm nhiều con trai. ”
“Con trai là giá trị của người đàn bà…”
“Nhưng bạn đã thấy điều gì xảy ra rồi đấy. Cơ thể mình đã sinh ra quá nhiều con gái.”
Với vấn đề không thể phủ nhận được này tôi có một câu trả lời thực tế.
“Số của chúng không được sống,” tôi nói. “Phải thấy thế là may mắn, vì chắc chắn đã có chuyện gì đó xảy ra với chúng. Đàn bà chúng ta chỉ có thể tiếp tục cố gắng mà thôi…”
“Ôi, Bách Huệ, khi bạn nói như thế đầu óc mình cứ trống rỗng. Mình chỉ còn nghe thấy tiếng gió thổi ào ạt qua rừng cây. Bạn có thấy là mặt đất dưới chân mình đang muốn sụt xuống không? Bạn nên quay về. Hãy để mình đến với mẹ mình...”
Đã nhiều năm trôi qua kể từ khi Tuyết Hoa mất đứa con gái thứ nhất. Hồi đó tôi không hiểu được nỗi đau đớn của cô. Nhưng giờ đây tôi đã trải qua bao đau khổ của kiếp người và nhìn mọi chuyện khác trước. Nếu việc một bà góa làm mình biến dạng hay quyên sinh để giữ thể diện cho gia đình chồng được xem là hoàn toàn hợp lý, thì tại sao người mẹ không thể thực hiện cái hành động tột cùng ấy vì bị mất đi một hay nhiều đứa con? Chúng tôi là người trông nom chúng. Chúng tôi yêu thương chúng. Chúng tôi chăm sóc chúng khi chúng ốm đau. Đối với con trai, chúng tôi chuẩn bị những bước đệm đầu tiên để chúng gia nhập vào thế giới của đàn ông. Đối với đám con gái, chúng tôi bó chân, dạy chúng học kiểu chữ bí ẩn của nữ giới, và dạy chúng trở thành người vợ tốt, người con dâu ngoan, người mẹ hiền, nhờ thế chúng sẽ hòa nhập được khi bước vào căn buồng phụ nữ của nhà chồng. Nhưng không người đàn bà nào sống lâu hơn những đứa con của mình. Thế là trái với quy luật tự nhiên. Nếu điều đó xảy ra, tại sao cô ta lại không thể nhảy qua vách đá, treo cổ lên cành cây, hay nuốt thuốc giặt quần áo.
“Ngày nào mình cũng đi đến một kết luận giống nhau,” Tuyết Hoa thú nhận, khi cô nhìn xuống thung lũng sâu hun hút phía dưới. “Nhưng rồi hình ảnh thím bạn xuất hiện trong tâm trí mình. Bách Huệ, thử nghĩ xem thím ấy đã đau khổ đến thế nào và chúng ta đã thờ ơ trước nỗi đau của thím ra sao.”
Tôi trả lời bằng sự thật. “Thím ấy đau đớn lắm, nhưng mình nghĩ chúng ta chính là nguồn an ủi của thím.”
“Hãy nhớ lại xem Mỹ Nguyệt dịu dàng đáng mến thế nào? Hãy nhớ lại xem cô vẫn đoan trang ra sao ngay cả khi cô sắp mất? Hãy nhớ lại khi thím bạn về đến nhà và đứng bên xác Mỹ Nguyệt? Chúng ta đều lo lắng thím sẽ quá thương cảm, vì thế chúng ta đã che đi khuôn mặt của Mỹ Nguyệt. Thím bạn không bao giờ còn được thấy mặt của Mỹ Nguyệt nữa. Tại sao chúng ta lại tàn nhẫn đến vậy?”
Lẽ ra tôi có thể chống chế vì rằng thi hài của Mỹ Nguyệt là một ký ức quá khủng khiếp để khắc ghi vào tâm trí của một người mẹ. Nhưng tôi lại nói, “Chúng ta sẽ về thăm thím ngay khi có thể. Bà sẽ rất vui khi gặp lại chúng ta.”
“Bạn thì có thể,” Tuyết Hoa nói, “nhưng mình thì không. Mình sẽ chỉ làm thím nhớ đến thân phận của thím. Nhưng nên biết điều này. Ngày nào hình ảnh của thím cũng nhắc mình phải chịu đựng.” Cô hất hàm về phía trước, lướt nhìn lần cuối những ngọn đồi mù mịt khói sương, rồi nói, “Mình nghĩ chúng ta nên quay về. Mình có thể thấy bạn đang lạnh. Ngoài ra, mình muốn nhờ bạn viết hộ mình một thứ.” Cô thò tay vào trong chiếc áo khoác ngoài lôi ra chiếc quạt của chúng tôi. “Mình mang nó theo. Mình sợ rằng đám loạn quân đốt nhà mình và chúng ta sẽ mất chiếc quạt.” Mắt cô nhìn vào mắt tôi. Giờ thì cô đã lùi hẳn lại. Cô thở dài và lắc đầu. “Mình đã nói sẽ không bao giờ lừa dối bạn nữa. Thật ra là, mình nghĩ chúng ta sẽ chết cả ở đây. Mình không muốn chúng ta ra đi mà không có chiếc quạt.”
Cô kéo tay tôi.
“Rời khỏi gờ đá thôi, Bách Huệ. Nhìn thấy bạn đứng đó mình thấy hãi.”
Chúng tôi quay về khu trại, ngồi đó tự tạo bút, mực. Chúng tôi kéo hai thanh củi cháy dở khỏi đống lửa và để nguội; rồi lấy đá đập vụn phần than đen, cẩn thận gạt lấy xỉ than văng ra. Rồi chúng tôi trộn vụn than với thứ nước được đun với mấy cái rễ cây. Hỗn hợp đó không được đen hay rõ như mực, nhưng dùng tạm cũng được. Sau đó chúng tôi tháo nẹp rổ, rút ra một đoạn tre, và cố hết sức vót thật nhọn. Cái này chúng tôi dùng làm bút. Chúng tôi thay nhau ghi lại chuyến đi này bằng thứ ngôn ngữ bí mật của chúng tôi, chuyện Tuyết Hoa mất đi đứa con trai nhỏ và đứa bé chưa kịp sinh ra đời, về những đêm giá rét, và về những niềm hạnh phúc trong tình bạn của chúng tôi. Khi viết xong, Tuyết Hoa nhẹ nhàng gấp chiếc quạt lại và đút nó vào trong áo của cô.
Đêm đó, đồ tể không còn đánh lão đồng nữa. Thay vì đó hắn lại muốn cô và ân ái với cô. Sau đó, cô đến bên tôi cạnh đống lửa, chui vào tấm chăn cưới của cô, cuộn tròn cạnh tôi, và đặt bàn tay lên mặt tôi. Cô mệt mỏi sau nhiều đêm mất ngủ và tôi cảm thấy chẳng mấy chốc người cô đã mềm nhũn đi. Trước khi chìm sâu vào giấc ngủ, cô thì thầm, “anh ta yêu mình hết sức. Mọi thứ rồi sẽ sáng sủa hơn. Bạn sẽ thấy. Anh ta đã có chuyển biến rồi.” Còn tôi lại nghĩ, Đúng, cho đến khi hắn lại trút nỗi tức giận hay đau khổ của mình vào con người đáng yêu đang nằm cạnh tôi đây, lần tới.
NGÀY HÔM SAU chúng tôi được báo là an toàn đã có thể trở về thôn. Sau ba tháng ở trong núi, tôi muốn nói rằng chúng tôi đã nhìn thấy người chết lần cuối cùng. Chúng tôi đã không chết. Chúng tôi phải đi qua tất cả những người bị bỏ lại trong suốt cuộc chạy trốn của chúng tôi. Chúng tôi nhìn thấy đàn ông, đàn bà, trẻ sơ sinh - tất cả những đứa trẻ sơ sinh đang bị thối rữa vì bị phơi dưới mưa nắng, trở thành bữa tiệc cho các con thú, và vì quá trình phân hủy tự nhiên. Sương trắng lóe lên dưới ánh nắng mặt trời rực rỡ. Lớp quần áo giúp nhận dạng ngay lập tức, và chúng tôi nghe thấy những tiếng gào khóc vì nhận ra người thân và quá thương xót.
Nếu tất cả những điều đó vẫn chưa đủ, thì nhiều người trong chúng tôi đã suy nhược đến mức không tránh khỏi cái chết - vào lúc bấy giờ, cái chặng sau cùng, khi chúng tôi đã gần về tới nhà. Phần lớn những người chết dọc đường xuống núi là đàn bà. Giữ thăng bằng trên đôi chân bó, phần trên của cơ thể chúng tôi quá nặng. Chúng tôi bị kéo về phía vực thẳm hun hút ngay bên phải. Lần này, dưới ánh sáng ban ngày, chúng tôi không chỉ nghe thấy những tiếng gào thét mà còn nhìn thấy tay họ khua lên một cách tuyệt vọng trong khoảng không. Ngày hôm trước, hẳn tôi đã rất lo cho Tuyết Hoa, nhưng nét mặt của cô thể hiện sự tập trung cao độ và bước từng bước thận trọng.
Đồ tể cõng mẹ trên lưng. Một lần, khi Tuyết Hoa chùn bước, lùi lại vẻ do dự khi nhìn thấy cảnh một bà mẹ đang gói ghém phần thân thể còn lại đang thối rữa của đứa con để đem về chôn cất cho đúng quy cách, anh ta dừng lại, đặt mẹ xuống, và nắm lấy khuỷu tay của Tuyết Hoa. “Đi tiếp đi mình,” anh ta nhẹ nhàng van xin. “Chúng ta sắp đến chỗ chiếc xe rồi. Mình sẽ được ngồi xe suốt quãng đường còn lại về Cẩm Điền.” Khi cô không chịu dứt nhìn người mẹ và đứa bé, anh ta nói thêm, “ta sẽ trở lại đây vào mùa xuân để mang hài cốt của thằng bé về. Ta hứa là nó sẽ được về bên chúng ta.”
Tuyết Hoa vươn thẳng vai và buộc mình miễn cưỡng đi qua người đàn bà với cái gói nhỏ xíu của cô ta.
Chiếc xe kéo tay không còn ở chỗ chúng tôi bỏ lại nó nữa. Chiếc xe và rất nhiều thứ khác bị bỏ lại từ ba tháng trước, đã bị loạn quân hay Đại quân Hồ Nam lấy mất. Nhưng vì đường đi tương đối bằng phẳng nên chúng tôi đi thẳng một mạch về nhà, quên đi đau đớn, chảy máu, cái đói lả người. Cẩm Điền vẫn vô sự, theo như tôi thấy. Tôi đỡ mẹ của đồ tể vào nhà và đi ra ngoài. Tôi muốn về nhà. Tôi đã đi xa đến mức tôi nghĩ vài dặm cuối về Thông Khẩu cũng chẳng nhằm nhò gì, nhưng đồ tể đã chạy sang thông báo với chồng tôi là tôi đã trở về và hãy đến đón tôi.
Ngay khi anh đi, Tuyết Hoa lôi tôi vào. “Nhanh lên,” cô nói. “Chúng ta không có nhiều thời gian đâu.” Cô kéo tôi vào trong nhà, dù tôi đang ngóng theo đồ tể vắt chân lên chạy trên con đường dẫn đến thôn tôi. Khi chúng tôi lên gác, cô nói, “bạn đã rất tốt bụng khi giúp mình với của hồi môn của mình. Giờ là lúc mình trả cho bạn một phần nhỏ ơn nghĩa đó.” Cô mở chiếc rương và lấy ra một chiếc áo khoác xanh thẫm đính một miếng lụa màu lam dệt thành hình đám mây ở phía trước. Miếng lụa này tôi nhớ là từ chiếc áo khoác Tuyết Hoa mặc ngày đầu tiên gặp tôi. “Mình sẽ rất hãnh diện nếu bạn mặc chiếc áo này khi gặp lại chồng bạn.”
Tôi biết Tuyết Hoa trông khủng khiếp thế nào, nhưng tôi không bận tâm xem trông mình thế nào khi gặp lại chồng. Tôi đã mặc chiếc áo khoác lụa màu hoa oải hương thêu hoa cúc suốt ba tháng ròng. Nó không chỉ bẩn thỉu dơ dáy và rách rưới, mà nhìn mình trong gương khi chờ nước nóng để tắm, tôi thấy ba tháng sống trong bùn, tuyết và dưới ánh nắng mặt trời từ trên cao đã thiêu đốt khuôn mặt tôi.
Tôi chỉ có đủ thời gian để lau rửa những chỗ mà chồng tôi có thể nhìn thấy hay ngửi thấy đầu tiên - bàn tay, cánh tay, mặt, cổ, nách và vùng kín. Tuyết Hoa cố hết sức xoay xở với mái tóc của tôi, búi mớ tóc rối n