NHỮNG NGÀY TIẾP THEO, TÔI KHÓ MÀ NGỒI yên một chỗ để cho đôi chân liền lại như mọi người căn dặn, bởi tôi chỉ nghĩ tới việc sẽ sớm được gặp Tuyết Hoa. Ngay cả mẹ và thím cũng bị bắt quả tang đang háo hức, gợi ý về những điều tôi và Tuyết Hoa nên viết trong bản thỏa ước mặc dù cả mẹ và thím đều chưa từng nhìn thấy một bản thỏa ước như vậy bao giờ. Khi kiệu của bà Vương đến ngưỡng cửa nhà chúng tôi, tôi đã sạch sẽ tinh tươm trong bộ quần áo nông dân giản dị. Mẹ đưa tôi xuống nhà, rồi ra ngoài. Mười năm sau, khi tôi lấy chồng, tôi sẽ có một chuyến đi bằng kiệu tương tự như vậy. Vào dịp đó, tôi sẽ chỉ thấy sợ hãi về cuộc sống mới phía trước và buồn bã vì phải để lại sau lưng tất cả những gì từng quen thuộc đối với tôi, nhưng trong buổi gặp gỡ này, tôi cảm thấy choáng váng bởi cảm giác kích thích đến căng thẳng. Không biết Tuyết Hoa có giống tôi không nhỉ?
Bà Vương mở cửa chiếc kiệu, mẹ đặt tôi ngồi xuống, và tôi bước vào một không gian nhỏ. Tuyết Hoa xinh hơn nhiều so với tưởng tượng của tôi. Đôi mắt cô như đôi trái hạnh đào hoàn hảo. Da cô trắng xanh, điều đó cho thấy cô không có nhiều thời gian chạy nhảy ngoài trời như tôi trong suốt tuổi thơ sữa. Tấm rèm đỏ buông xuống gần cô, và ánh sáng màu hồng lấp lánh trên mái tóc đen óng của cô. Cô mặc áo ngoài bằng lụa xanh, thêu hình một đám mây. Bên dưới ống quần của cô ló ra đôi giày tôi đã khâu tặng. Tuyết Hoa im lặng. Có lẽ cô cũng căng thẳng như tôi. Cô mỉm cười với tôi và tôi cũng cười đáp lễ.
Chiếc kiệu chỉ có một chỗ ngồi, nên cả ba người chúng tôi phải ngồi sát vào nhau. Để giữ cho chiếc kiệu được cân bằng, bà Vương ngồi ở giữa. Những người phu kiệu nâng chúng tôi lên, và chẳng mấy chốc họ đã đi qua cây cầu dẫn ra khỏi Phủ Vĩ. Trước nay tôi chưa từng ngồi kiệu. Chúng tôi có bốn người khiêng kiệu, họ cố gắng chạy đúng cách để kiệu lắc lư ít nhất, nhưng tấm rèm rủ xuống, hơi nóng của ban ngày, sự lo lắng của tôi, sự di chuyển nhịp nhàng lạ lùng khiến bụng tôi khó chịu. Tôi cũng chưa bao giờ đi xa nhà, nên kể cả nếu lúc đó tôi có thể nhìn ra bên ngoài qua cửa sổ thì tôi cũng không biết rằng tôi đang ở đâu, và còn bao xa nữa mới tới. Tôi đã từng nghe nói về ngôi miếu ở hội chợ Cô Bà. Mà có ai lại chưa từng cơ chứ? Đàn bà con gái hàng năm vẫn tới viếng nơi này vào mùng mười tháng Năm để cầu xin con trai. Nghe nói, có hàng ngàn người đã tới hội này. Chuyện này nằm ngoài khả năng hiểu biết của tôi. Khi tôi bắt đầu nghe thấy những tiếng ồn ào vọng tới qua bức rèm của chiếc kiệu - tiếng lục lạc phát ra từ những chiếc xe ngựa, tiếng những người khiêng kiệu quát người đi đường, “Tránh ra,” và tiếng rao của những người bán hàng rong trên đường phố đang vẫy tay mời khách mua hương, nến và những lễ vật khác, để mang đến ngôi miếu - thì tôi biết chúng tôi đã tới nơi.
Chiếc kiệu dừng lại và những người khiêng kiệu đặt chúng tôi xuống khá mạnh. Bà Vương ngả sang phía tôi, đẩy cánh cửa, nói chúng tôi ngồi yên đấy, và bước ra ngoài. Tôi nhắm mắt lại, cảm thấy dễ chịu vì không phải đi nữa và chú tâm vào việc xoa dịu cái bụng, chợt một giọng cất lên nói đúng những suy nghĩ của tôi: “Thật thích khi được ngồi yên không phải đi đâu nữa. Mình phát ốm lên rồi. Trông mình thế nào?”
Tôi mở mắt nhìn Tuyết Hoa. Làn da trắng xanh của cô trở nên xanh mét y như tôi hình dung ra khuôn mặt của mình lúc đó vậy. Nhưng đôi mắt cô thì thực sự tĩnh tại. Cô so vai lên gần tai đầy bí ẩn, cười theo cái kiểu mà tôi sớm nhận ra thế nghĩa là bất kể những gì nảy ra trong đầu cô đều sẽ khiến chúng tôi gặp rắc rối rồi vỗ nhẹ tấm nệm bên cạnh cô và nói, “Nhìn xem có gì ngoài kia nào.”
Điểm cốt lõi để liên kết tám điểm chung của chúng tôi lại với nhau là chúng tôi cùng sinh vào năm con ngựa. Điều này có nghĩa là chúng tôi đều thích phiêu lưu. Cô lại nhìn tôi, thăm dò độ can đảm của tôi, tôi phải thừa nhận là phẩm chất đó ở tôi rất ít. Tôi hít một hơi sâu và ghé sang chỗ cô trong chiếc kiệu, cô kéo tấm màn lên. Bây giờ, tôi mới có thể đối diện với những giọng nói tôi nghe thấy ban nãy, nhưng ngoài ra, trước mắt tôi còn bao hình ảnh thật đáng kinh ngạc. Những người thuộc bộ tộc Dao dựng lên những gian hàng vải được trang hoàng với những tấm vải bay phấp phới, sặc sỡ hơn bất cứ tấm vải nào mà mẹ và thím từng dệt. Một ban hát với trang phục sặc sỡ đi ngang qua, họ đang trên đường tới một buổi biểu diễn Kinh kịch. Một người đàn ông dắt con lợn đi qua. Tôi chưa từng nghĩ có ai đó lại mang lợn ra chợ để bán cả. Cứ vài phút lại thấy một chiếc kiệu khác đổi hướng đi qua kiệu bọn tôi. Bọn tôi đoán rằng trong mỗi chiếc kiệu lại có một người phụ nữ tới Miếu Cô Bà dâng lễ. Nhiều người phụ nữ khác thì đi bộ trên đường - những chị em kết nghĩa đã lấy chồng ở thôn khác và quay lại gặp mặt trong ngày đặc biệt này. Họ mặc chiếc váy đẹp nhất và đội những chiếc khăn trùm đầu được thêu tinh xảo nhất. Họ cùng nhau bước đi uyển chuyển trên những đôi chân bó dọc theo con phố. Ở đây có quá nhiều cảnh đẹp cuốn hút chúng tôi, cộng thêm mùi thơm ngọt ngào không tưởng tượng được thoảng đến chỗ chiếc kiệu của chúng tôi hấp dẫn cái mũi tôi và khiến bụng tôi trở nên dễ chịu.
“Bạn đến đây bao giờ chưa?” Tuyết Hoa hỏi tôi. Khi tôi lắc đầu, cô tiếp tục. “Mình đến đây với mẹ mấy lần rồi. Mẹ con mình luôn cảm thấy vui vẻ. Mẹ con mình đến viếng ngôi miếu. Bạn có nghĩ là hôm nay chúng ta sẽ đi tham quan ngôi miếu không? Chắc là không. Vì như thế sẽ phải đi bộ quá nhiều, nhưng mình hy vọng chúng ta sẽ được đến quầy bán khoai. Mẹ thường dẫn mình đến đó. Bạn có ngửi thấy mùi đó không? Ông Chu - chủ quầy đó - có món khoai môn rán ngon nức tiếng huyện ta đấy.” Cô đã đến đây nhiều lần? “Ông ấy làm thế này này: ông ấy chiên mấy miếng cho đến khi ruột mềm đi nhưng vỏ ngoài thì cứng lại và giòn tan. Sau đó ông ấy nấu đường trong một cái chảo lớn và để lửa to. Bạn ăn đường chưa Bách Huệ? Đó quả là thứ ngon nhất trên đời này đấy. Ông ấy đun nó cho đến lúc chuyển sang màu nâu, và ông ấy cho khoai chiên vào chảo đường và ông ấy trộn chúng với nhau, đến khi nào những miếng khoai đều được bọc đường. Ông ấy cho chúng vào đĩa và mang đến bàn của bạn, cùng với một bát nước lạnh. Bạn không thể tin được là khoai nóng đến mức nào với lớp đường nấu chảy đó đâu. Nó sẽ làm bạn phỏng cả miệng nếu bạn cứ cố ăn lấy ăn để, thế nên bạn phải dùng đôi đũa gắp từng miếng khoai nhúng vào nước. Rắc! Rắc! Rắc! Đó là âm thanh khi lớp đường bọc cứng lại. Khi bạn cắn miếng khoai, bạn nhai lớp đường trước, rồi tới lớp vỏ khoai chiên giòn rồi mới tới cái lõi mềm trong cùng. Dì sẽ dẫn chúng mình đi, đồng ý không?”
“Dì nào?”
“Bạn nói rồi kìa! Mình cứ nghĩ tất cả những gì bạn có thể làm là viết những từ ngữ tuyệt vời thôi cơ.”
“Có lẽ mình không nói nhiều bằng bạn,” tôi nhẹ nhàng đáp lại, cảm thấy bị tổn thương. Cô là chắt gái của một tiến sĩ và hiểu biết gấp nhiều lần một con bé con nhà nông dân như tôi.
Cô cầm lấy tay tôi. Bàn tay cô thật khô và nóng hổi, khí trong người cô đang bừng bừng. “Đừng lo. Mình cũng không để ý đâu nếu bạn vẫn im lặng. Cái tật nói nhiều của mình chỉ tổ luôn gây rắc rối cho mình thôi vì mình thường không suy nghĩ kỹ trước khi nói, còn bạn sẽ là một người vợ lý tưởng, luôn luôn nghĩ kỹ rồi mới nói.”
Thấy chưa? Ngay ngày đầu tiên chúng tôi đã hiểu nhau rồi, nhưng liệu điều này có ngăn chúng tôi về sau không mắc phải sai lầm không?
Bà Vương mở cửa kiệu. “Xuống đây, các cô gái. Mọi thứ đã được chuẩn bị sẵn sàng. Chỉ mười bước thôi là chúng ta sẽ đến nơi hẹn. Chậc, ta đành phải vi phạm lời hứa với mẹ của các cô thôi.”
Chúng tôi đứng cách hàng giấy được trang trí những băng giấy màu đỏ thắm, đôi câu chúc may mắn, các biểu tượng hạnh phúc nhân đôi đỏ và vàng, và những bức tượng Thánh nữ Cô Bà sơn màu. Chiếc bàn trước cửa chất đầy những món hàng đủ màu sắc để bán. Hai gian hai bên dành cho khách quen đi vào bên trong cửa hàng, hai phía đều có kê ba chiếc bàn dài nhằm ngăn cách hai gian này với sự huyên náo ngoài đường. Ở giữa quầy hàng, một chiếc bàn nhỏ dùng để đặt mực, bút lông, và hai chiếc ghế dựa. Bà Vương bảo chúng tôi lựa một tờ giấy để viết thỏa ước. Giống như mọi đứa trẻ tôi thường chỉ chọn những thứ nhỏ, như khi phải chọn miếng rau nào trong chiếc bát lớn sau khi bố, chú, anh trai và các thành viên khác trong nhà đã đưa đũa vào đĩa. Giờ thì cái nào tôi cũng muốn chọn, tôi muốn chạm tay vào tất cả những món hàng, trong khi Tuyết Hoa, cũng là một cô bé bảy tuổi rưỡi như tôi, lại rất biết cách lựa chọn, điều đó cho thấy cô được dạy dỗ tốt hơn tôi nhiều.
Bà Vương nói, “Nhớ nhé, các cô, ta sẽ trả tiền cho mọi thứ hôm nay. Đây chỉ là một quyết định thôi. Các cô còn những việc khác cần làm, nên đừng lãng phí thời giờ nữa.”
“Tất nhiên rồi, thưa dì,” Tuyết Hoa trả lời thay cho cả hai đứa tôi. Cô hỏi tôi, “Bạn thích cái nào?”
Tôi chỉ vào tờ giấy có khổ lớn vì chính cái khổ ấy mới thích hợp cho một dịp quan trọng thế này.
Tuyết Hoa giơ ngón tay trỏ chỉ vào mép vàng của tờ giấy. “Chất lượng của mép giấy vàng này tệ lắm,” cô nói; rồi cô đưa tờ giấy lên soi. “Tờ giấy này mỏng tang và nhìn xuyên qua được như cái cánh ong cánh kiến ấy. Nhìn ánh nắng chiếu qua nó này?” Cô đặt tờ giấy xuống bàn và nhìn vào mắt tôi với vẻ nghiêm túc. “Chúng ta cần một thứ có thể mãi mãi khắc ghi tính cao quý và sự vững bền của mối quan hệ giữa chúng ta.”
Tôi hầu như chẳng hiểu những điều cô nói. Cô nói hơi khác với thổ âm mà tôi quen nghe ở Phủ Vĩ, nhưng đó không phải là lý do duy nhất khiến tôi không hiểu. Tôi là đứa trẻ kém cỏi và ngây ngô; còn cô là người được dạy dỗ tử tế; và những kiến thức cô được học ở nhà còn vượt xa những gì mẹ và thím tôi biết.
Cô kéo tôi vào sâu hơn trong cửa hàng và thì thầm, “Họ luôn luôn để những thứ hàng tốt hơn ở đằng sau này.” Rồi cô nói tiếp, giọng bình thường trở lại, “lão đồng, bạn thấy cái này thế nào?”
Đó là lần đầu tiên có một người đề nghị tôi nhìn - nhìn thật - vào một thứ gì đó, và tôi làm theo. Thậm chí, cặp mắt ngờ nghệch của tôi cũng nhìn ra sự khác nhau giữa tờ giấy tôi chọn ở ngoài kia và tờ giấy ở trong này. Nó nhỏ hơn về kích cỡ và ít lòe loẹt hơn trong cách trang trí.
“Kiểm tra xem,” Tuyết Hoa nói.
Tôi cầm tờ giấy lên - cảm thấy nó chắc nịch trong tay mình - rồi soi chúng dưới ánh nắng như Tuyết Hoa đã làm. Tờ giấy này dày đến nỗi ánh nắng chỉ còn là vệt đỏ mờ đục khi chiếu qua nó.
Chúng tôi lặng lẽ thỏa thuận với nhau, rồi đưa tờ giấy đến chỗ người bán hàng. Bà Vương trả tiền cho món hàng đó và cả cho chúng tôi để chúng tôi được ngồi viết thỏa ước ở chiếc bàn giữa gian hàng. Lúc ấy, Tuyết Hoa và tôi ngồi xuống đối diện với nhau.
“Bạn nghĩ là đã có bao nhiêu cô gái từng ngồi ở chiếc ghế này để viết thỏa ước?” Tuyết Hoa hỏi. “Chúng ta phải viết một thỏa ước hay nhất từng có.” Cô nhíu mày một chút, rồi hỏi, “Bạn nghĩ mình nên viết gì bây giờ?”
Tôi chợt nhớ đến những điều mà mẹ và thím tôi gợi ý. “Chúng ta là những cô gái,” tôi nói, “nên chúng ta luôn phải tuân theo quy tắc.”
“Đúng, đúng, tất cả những điều thông thường,” Tuyết Hoa nói, có vẻ hơi sốt ruột, “nhưng chẳng lẽ bạn không muốn thỏa ước này dành riêng cho hai đứa mình?”
Chính tôi cũng không chắc lắm, còn cô thì có vẻ biết rất nhiều chuy