/> Cứ thế sụp đổ có lẽ là việc nhẹ nhàng nhất. Khóc thảm, trốn tránh, tê liệt, thậm chí là chết, tất cả đều thoải mái hơn là cắn răng kiên trì. Nhưng nàng ta biết mình vĩnh viễn không thể lựa chọn những cách làm thoải mái đó, bởi vì nàng ta là thê tử của Niếp Phong, ngay cả khi không còn lưu luyến sự sống thì cũng muốn để người chết được an ủi. Nàng ta phải tìm ra chân tướng của vụ thảm sát năm đó để đến tế trước mộ phần vong phu.
"Mông đại nhân, xin chuyển cáo tiên sinh, Hạ Đông tin rằng tiên sinh không phải người nóng vội, Hạ Đông cũng tin rằng tiên sinh có thể trả lại sự công bằng cho người đã khuất. Trước đó, dù có bị đi lưu đày ta cũng có thể gắng gượng, tiên sinh không cần phân tâm vì ta."
Mông Chí trịnh trọng khom mình hành lễ với nàng ta, cách xưng hô cũng thay đổi: "Ta nhất định sẽ chuyển lời này của Niếp phu nhân cho tiên sinh. Không chỉ tiên sinh sẽ không để bản án cũ năm đó bị chôn vùi mà Tĩnh vương điện hạ cũng đã thề phải truy tra đến cùng. Mặc dù trên người Niếp tướng quân không có ô danh, nhưng dù sao Niếp tướng quân cũng là căn nguyên của vụ án Xích Diễm. Nếu không thể bố cáo chân tướng vụ án này trước bách tính trong thiên hạ thì anh linh Niếp tướng quân cũng không được an nghỉ. Có điều, lúc nào có thể hoàn thành tâm nguyện này thì thật sự rất khó nói, xin Niếp phu nhân cố gắng nhẫn nại."
Hạ Đông quay người lại, ánh sáng chiếu vào bên mặt, in những đường nét bên má nàng ta lên một bên cánh mũi. Nàng ta không mở miệng trả lời, nhưng sự trầm tĩnh và kiên nhẫn trong mắt đã nói rõ hết thảy.
Mông Chí cũng không nhiều lời, chắp tay thi lễ rồi rời khỏi phòng giam.
Ngoài u minh đạo, một lão ngục tốt vẫn trốn ở chỗ khuất lén nhìn về phía bên này, hoặc nói, ông ta cho rằng mình đang trốn.
Khu phòng giam chữ Hàn vẫn trống không, vắng lạnh mà cô quạnh.
Mông Chí chỉ liếc một ánh mắt vội vã về phía đó rồi sải những bước dài rời đi.
Bên đó còn giữ lại dấu chân cuối cùng của Kỳ vương, bên đó từng là nơi chấm dứt hi vọng của rất nhiều người, nhưng thống lĩnh cấm quân hiểu còn rất lâu nữa mới có thể xót thương, tưởng nhớ.
Tháng Hai năm nay có hội thi mùa xuân ba năm tổ chức một lần, theo quy định sẽ do bộ Lễ chủ trì, Hoàng đế phái một quan chủ khảo, mười tám phó chủ khảo tuyển chọn sĩ tử trong thiên hạ.
Những năm trước, mỗi khi đến dịp hội thi, để giúp người của mình tranh đoạt vị trí giám khảo, Thái tử và Dự vương đều sử dụng hết mưu mẹo, vừa công khai vừa ngấm ngầm đấu đá đến tối mắt tối mũi. Mà các giám khảo được chọn bằng cách này đương nhiên phải suy nghĩ đến lợi ích của chủ nhân, vì vậy các tệ nạn thi cử cũng hoành hành.
Một số ngự sử và triều thần trung trực đã can gián vô số lần nhưng không những không có hiệu quả mà kết cục còn rất thê thảm.
Những tệ nạn trong tuyển chọn sĩ tử đã trở thành một căn bệnh kinh niên của triều đình, những người có chút kiến thức đều hiểu rõ điều này.
Có điều người ta cũng biết rõ tình hình năm nay nhất định sẽ thay đổi, còn thay đổi thế nào thì rất nhiều người đều đang trông ngóng.
Khoa cử là con đường duy nhất của đa số những người đi theo con đường làm quan, chỉ trừ con trưởng của các gia tộc thế tập, trong đó dính dáng tới rất nhiều vấn đề phức tạp. Địa phương, xuất thân, nhân thân, bằng hữu, sư môn... rất nhiều nhân tố có thể ảnh hưởng đến kết quả cuối cùng chứ không chỉ là vấn đề đấu đá phe cánh. Muốn không khuất phục trước những thứ này, muốn ngăn chặn tất cả mọi hoạt động tiêu cực thì sẽ phải chịu đựng áp lực đến từ nhiều phía, đồng thời chính mình cũng phải bảo đảm tuyệt đối công bằng, chính trực để tránh bị người khác chỉ trích.
Lúc này Thái tử đã đổ, Dự vương bị giam lỏng, người có thể gây ảnh hưởng đến việc lựa chọn giám khảo năm nay hình như chỉ có một mình Tĩnh vương. Nếu hắn có ý định sử dụng tầm ảnh hưởng của mình trong việc này thì chẳng ai dám đứng ra chống đối.
Cuối tháng Giêng, bộ Lễ tuyên bố ngày tốt tổ chức kì thi mùa xuân năm nay theo tử vi, Hoàng đế Đại Lương thăm dò ý kiến của Tĩnh vương về chuyện lựa chọn giám khảo và nhận được câu trả lời: "Sự tình quan trọng, không dám đáp ngay, xin cho nhi thần suy nghĩ kĩ mấy ngày."
Mặc dù không có câu trả lời rõ ràng nhưng có thể thấy Tĩnh vương không hề định đặt thân ngoài chuyện.
Nhưng thay đổi thói xấu chắc chắn không phải một chuyện dễ dàng, làm không tốt sẽ phản tác dụng, cho nên mọi người đều đang chờ đợi danh sách cuối cùng được đưa ra, trên thực tế cũng là đang chờ xem quyết sách cuối cùng của vị thân vương này có đắc tội với người khác hay không. Tĩnh vương sẽ cố gắng đề cử những nhân sĩ chính trực được hắn tán thưởng hay sẽ khuất phục trước thông lệ hằng năm, chọn một quan chủ khảo biết điều, để lại một khe hở để tấn thân cho một số người.
Mùng Bốn tháng Hai, danh sách cuối cùng cũng được Trung Thư lệnh kí phát, do ti lễ quan tuyên đọc trước triều đình.
Nếu người ta có thể rơi cằm thật thì hôm đó trong triều đình nhất định có thể nhặt được cằm rơi ở khắp nơi.
Tất cả các phó chủ khảo đều là những thị lang trẻ tuổi, hăng hái nhất trong sáu bộ, nhưng quan chủ khảo lại là Trình Tri Kỵ, nguyên là các lão của Phượng các đã bảy mươi ba tuổi.
Trình lão đại nhân đã ở nhà nghỉ ngơi nhiều năm, không bước chân vào cung, mặc dù các lão là quan chức danh dự mọi người đều biết nhưng theo chế độ, ông ta vẫn có chức vụ chính nhất phẩm, thuộc phạm vi có thể được chọn làm quan chủ khảo.
Chỉ là trước kia chưa từng có người như ông ta được đề bạt, lúc mọi người suy đoán những người có thể được lựa chọn cũng không có ai nghĩ đến ông ta.
Có điều người ta nhanh chóng nhận ra hiệu quả của sự phối hợp già trẻ trong cách làm của Tĩnh vương. Trình Tri Kỵ không phải một lão thần quá cứng rắn, ông ta hiền hậu, nhu hòa, không bao giờ từ chối khách đến thăm, không làm người khác mất thể diện.
Bởi vì ông ta đã nhiều năm không vào triều nên không hiểu rõ các mối quan hệ trong triều, một chuyện chỉ cần thoáng nhắc tới là người khác sẽ hiểu rõ nhưng đến chỗ ông ta lại phải giải thích cặn kẽ đầu đuôi. Mấu chốt là nếu không phải quan hệ cực kì vững chắc thì ai dám tùy tiện nói rõ mình là con ai cháu ai, đặc biệt là nói với một lão thần bị mọi người quên lãng rất nhiều năm, không còn ai biết rõ nông sâu thế nào.
Dù sao thì mạo hiểm cũng vẫn là chuyện đầu tiên cần suy nghĩ, không thể còn chưa quen đường đã nghênh ngang khiêng một hòm vàng bạc châu báu tới nhà nhờ vả người ta, mấy ngự sử mới thượng nhậm lại không phải đồ bỏ.
Nhưng từ khi xác định giám khảo đến lúc vào trường thi chỉ có thời gian mười ngày.
Các con đường tiếp xúc với Trình Tri Kỵ còn chưa được làm rõ thì vị lão đại nhân này đã thu xếp hành lý vào trường thi.
Không còn ảnh hưởng của ngoại giới và tư tâm của từng người, việc tranh luận và dị nghị cũng trở nên đơn giản hơn nhiều.
Thực ra khuyết điểm lớn nhất trong sự phối hợp già trẻ chính là người già bảo thủ, không tiếp nhận quan điểm mới. Người trẻ tự phụ, không tôn trọng kinh nghiệm của tiền bối.
Trong "mấy ngày suy nghĩ" để quyết định chọn ai, vấn đề lớn nhất Tĩnh vương suy nghĩ chính là chuyện này.
Mặc dù trong danh sách cuối cùng không phải toàn bộ đều là những người hắn đề nghị, chính Hoàng đế Đại Lương cũng thay mấy người, nhưng cục diện cơ bản thì không thay đổi, cuối cùng cũng đạt được hiệu quả Tĩnh vương muốn.
Trình Tri Kỵ quả thật là một lựa chọn thích hợp. Mặc dù ông ta đã già nhưng tính tình không hề cố chấp, rất thích nghe người khác tranh luận. Đồng thời ông ta lại là đại học sĩ đời trước, các lão của Phượng các, kinh nghiệm cực kì phong phú, chỉ sau ngày đầu tiên chấm thi, mười tám vị phó chủ khảo đã bội phục vị lão tiên sinh này, không có ai dám không tôn trọng ông ta.
Một khi quan chủ khảo không phản cảm trước những cách làm cấp tiến của những người trẻ tuổi, các phó chủ khảo lại thừa nhận quyền uy của quan chủ khảo, việc trói buộc lẫn nhau đương nhiên có thể biến thành bù đắp cho nhau, không hề sinh ra mâu thuẫn gì lớn.
Thực ra kì thi năm nay còn xa mới có thể đạt đến mức độ không bỏ sót bất cứ nhân tài nào, bởi vì điều đó là không thể, nhưng tối thiểu đây tuyệt đối là kì thi sạch sẽ nhất, công bằng nhất trong nhiều năm nay.
Mục tiêu của Tĩnh vương là "không cầu lập công, không được mắc lỗi". Hắn không hi vọng có thể nhanh chóng xử lý được hết những tệ nạn đã kéo dài bao năm nay, cũng không áp dụng cách thức cứng rắn, lạnh lùng, dễ gây ra bất mãn và phản đối để bảo đảm liêm khiết. Điều đầu tiên hắn cần thay đổi chính là quan niệm "không có tệ nạn không phải trường thi" vẫn tồn tại từ trước đến nay, chặt đứt rất nhiều cái gọi là thông lệ đã tiếp diễn nhiều năm, bước một bước đầu tiên trên con đường chỉnh lí quá trình tuyển chọn quan lại.
Kì thi xuân kết thúc thuận lợi, không có sóng gió lớn, điều này làm cho Hoàng đế Đại Lương rất vui vẻ.
Điều ông ta lo lắng nhất vốn là Tĩnh vương không hiểu thời thế, một mực làm theo những suy nghĩ của mình khiến triều chính gặp cơn sóng gió, bây giờ xem ra hắn cũng đã dần khôn khéo hơn, đương nhiên trong lòng rất vui mừng.
Chớp mắt đã cỏ xanh oanh lượn, tháng Ba đã tới, Nội đình ti bắt đầu bận rộn chuẩn bị cho cuộc đi săn mùa xuân của hoàng tộc và việc chuyển giá qua hành cung ở núi Cửu An.
Ngoài Dự vương còn đang bị giam lỏng không được tùy giá, các hoàng tử còn lại đương nhiên đều phải đi theo, cộng với tôn thất trọng thần hộ tống là hai trăm người, mỗi người đều có một đám tùy tùng, quy mô của cuộc đi săn mùa xuân xem như lớn nhất trong mấy năm nay.
Hoàng hậu vẫn phụng chiếu lưu thủ trong cung như những năm trước, nhưng phi tần tùy giá đã không phải Việt quý phi từng được sủng ái nhất sáu cung mà là Tĩnh phi.
Hai ngày trước khi nghi giá rời kinh, Mục Thanh lại ngồi trên vương kiệu tám người khiêng tiến về Tô trạch, hơn nữa vào thẳng đến hậu viện mới hạ kiệu, mà từ trên kiệu bước xuống, ngoài vị tiểu vương gia này còn có một thanh niên dường như vừa mới khỏi bệnh nặng.
Lê Cương lẳng lặng bước tới thi lễ rồi đưa hai người vào chính phòng của Mai Trường Tô.
Mục Thanh vui mừng hớn hở, vừa vào cửa đã quay về hướng chủ nhà, chắp tay nói: "Ta đưa người đến rồi, trên đường hết thảy bình an, không xảy ra chuyện gì." Nói xong hắn dịch người qua bên cạnh, để thanh niên sau lưng hiện thân.
"Đa tạ Mục vương gia." Mai Trường Tô cười đáp lễ, rồi lại nhìn thanh niên đó. "Tại hạ Mai Trường Tô, may mắn được gặp Vệ tướng quân, xin hỏi thương thế đã khỏi chưa?"
Vệ Tranh kiềm chế sự kích động trong lòng, run giọng nói: "Ơn cứu giúp của Tô tiên sinh, tại hạ không bao giờ quên..." Hắn vừa nói vừa định quỳ gối tham bái, nhưng bị ánh mắt nhu hòa của đối phương ngăn lại, đành cúi người vái thật sâu.
Mục Thanh cho rằng nhiệm vụ đã hoàn thành, thoải mái vung tay, hỏi: "Phi Lưu đâu?"
"Hắn không có nhà." Mai Trường Tô hiểu ý vị tiểu vương gia này, chỉ có điều bây giờ có người đang chờ trong mật thất, đương nhiên phải nghĩ cách trục khách trước. "Hôm khác ta sẽ dẫn hắn đến phủ, còn hôm nay e rằng không thể gặp được. Ta phải an trí Vệ tướng quân một chút đã."
"Nhớ phải đến đấy." Mục Thanh là một người hào sảng, không hề chấp nhặt, chỉ dặn một câu rồi xoay người dứt khoát bước đi.