Hóa ra cậu luôn nhớ tới một người, bởi vì mãi vấn vương trong lòng nên lúc này mới có thể gọi tên người ta như thế.
Bỗng nhận ra sự thực, Nhiếp Lạc Ngôn đứng ngây ra đó một lúc, rồi im lặng đi vào bếp.
Máy lọc nước, ấm đun nước, cốc thủy tinh, đường trắng, mật ong, mọi thứ đều được để trên kệ.
Cô rót đầy ấm nước, cắm điện, đèn báo hiệu màu cam bừng sáng, rất nhanh sau đó nghe thấy tiếng nước sôi “ùng ục”.
Chiếc cốc sau khi được rửa sạch sẽ trở nên trong suốt, cô rót vào nửa cốc nước sôi, rồi rót nốt chỗ nước còn lại trong ấm vào bình giữ nhiệt.
Cô nghĩ, Tiểu Lộ là người như thế nào nhỉ?
Rót mật ong vào, vệt vàng óng ánh kia khẽ xoay tròn rồi chìm xuống đáy cốc, sau đó dần tan vào trong nước. Cô lấy thìa, vừa quấy vừa nghĩ, Tiểu Lộ… Tiểu Lộ… Dường như cuối cùng trong đầu cũng có thứ gì đó lóe lên, rồi lại nhanh chóng biến mất, vô cùng uyển chuyển.
Bàn tay đang quấy nước bất giác dừng lại.
… Tiểu Lộ, tiểu lộc [1].
[1] Trong tiếng Hán, lộ và lộc có phát âm gần giống nhau, nên Trình Hạo dùng dây đeo có hình chú hươu nhỏ (tiểu lộc) để nhớ đển Tiểu Lộ.
Chiếc dây đeo điện thoại lâu nay cậu vẫn dùng, chú hươu pha lê nhỏ mà cậu luôn mang theo bên mình, chú hươu với màu sắc lung linh, đẹp đẽ lắc lư trong toa tàu ngày hôm đó thu hút tâm trí của bất kỳ ai.
Hóa ra… hóa ra ngay từ khi bắt đầu, mọi cố gắng của cô đều không được đền đáp.
Lúc này, ánh nắng bên ngoài cửa sổ giống như cát vàng, lặng lẽ rơi xuống giữa mười ngón tay, nhưng chỉ cần nắm nhẹ tay là chúng liền tan biến, tan biến một cách thầm lặng, không hình không dạng, không một tiếng động, cũng giống như thời gian bao năm qua và tình cảm bấy lâu của cô vậy.
Bưng cốc nước mật ong ra, Nhiếp Lạc Ngôn mới biết Trình Hạo ngả xuống ghế sô pha ngủ thiếp đi rồi. Hơi thở nặng nề, dáng vẻ càng lúc càng trầm mặc, giữa hai lông mày vẫn hơi nhíu lại.
Cô vừa tìm được một chiếc chăn đắp cho cậu thì có tiếng chuông cửa.
Nghiêm Thành mua rất nhiều đồ ăn tới, lần lượt cất vào tủ lạnh, sau đó mở rèm cửa, dọn dẹp đống lon bia bừa bãi ở trên bàn, rồi cất hết những lon chưa bật nắp.
“Lúc mới phát hiện cậu ấy mắc chứng trầm cảm, cũng như thế này sao?”, Nhiếp Lạc Ngôn đứng phía sau thắc mắc.
Nghiêm Thành nghĩ một lát rồi đáp: “Lúc đó cậu ấy mới học cấp ba, chưa biết hút thuốc, uống rượu”.
Nhiếp Lạc Ngôn ngỡ ngàng: “Cấp ba sao?”.
“… Đúng vậy.”
“Rốt cuộc là vì sao?”, cô nhíu mày nhìn Nghiêm Thành, “Lúc đó mới mười mấy tuổi, sao có thể mắc chứng trầm cảm được?”. Điều này đối với cô mà nói, thực sự vô cùng khó hiểu.
Dừng tay đang lau dọn kệ bếp, Nghiêm Thành quay đầu lại nhìn cô, trong khoảng thời gian ngắn ngủi ấy dường như anh đã rất do dự, ánh mắt ẩn sau đôi kính khẽ lóe sáng, mãi sau đó mới hạ quyết tâm, nói: “Khi ấy có một bạn học qua đời, cái chết của người đó đã tác động mạnh đến tất cả bọn mình, quan hệ giữa Trình Hạo và người ấy vô cùng thân thiết”.
“… Là sao?” Nhiếp Lạc Ngôn nghĩ một lát, rồi đột nhiên hỏi tiếp: “Anh có biết Tiểu Lộ là ai không?”.
Ai ngờ Nghiêm Thành lại sững người, nét mặt trở nên vô cùng kỳ quặc, anh hỏi lại: “Em nghe được cái tên này từ đâu?”.
Cô vẫn chưa nhận ra điều gì, quay đầu nhìn người đang nửa tỉnh nửa say ngủ trên sô pha kia, “Cậu ấy vừa nói. Nên em nghĩ…”. Cô tự nhủ, nếu như có thể, hiện giờ người có thể cứu Trình Hạo ra khỏi tình trạng này có lẽ không phải là cô, mà là người con gái tên là Tiểu Lộ kia.
Nghiêm Thành im lặng.
Căn phòng yên ắng tới mức có thể nghe thấy tiếng đồng hồ treo tường, tích tắc, tích tắc, rất khẽ nhưng lại theo quy luật, rõ ràng, như từng nhịp gõ vào tim.
Thực ra trong lòng Nhiếp Lạc Ngôn cũng có chút chấn động, bởi cuối cùng cô cũng nghe thấy Nghiêm Thành mở miệng, giọng anh trầm như tiếng vọng từ vực sâu của hang núi: “Chu Hiểu Lộ, chính là cô bạn học cấp ba ấy”.
Cơn gió nhẹ khiến bóng cây lay động, những cành lá tươi non xào xạc, ánh nắng loang lổ in trên bệ cửa, thời khắc đó dường như thời gian chuyển động quay về quá khứ.
“Anh, Trình Hạo và cả Hiểu Lộ, ba người bọn anh thân nhau từ nhỏ. Bắt đầu lên mẫu giáo bọn anh đã học cùng lớp, lại đều sống trong một khu, nên có thể coi là những người bạn thanh mai trúc mã. Lúc đó bố mẹ của Trình Hạo vì công việc phải chuyển tới vùng khác, nên cậu ấy sống cùng cô. Từ nhỏ Trình Hạo đã tinh nghịch nhưng rất thông minh, mặc dù hay trốn học, đánh nhau, nhưng kỳ thi nào cũng đạt điểm tối đa, các thầy cô rất đau đầu vì cậu ấy. Cô của Trình Hạo bình thường cũng rất bận nên không có thời gian chăm lo cho cháu, thỉnh thoảng mới nhớ tới đốc thúc cậu ấy tập đàn. Anh còn nhớ, có một dạo cậu ấy rất ít khi về nhà ăn cơm, tan học xong là cùng cả đám bạn đi chơi, mãi tới tối mịt mới về.
Đôi khi cũng tới nhà Hiểu Lộ, bởi họ ngồi cùng bàn. Kể cũng lạ, quãng thời gian từ tiểu học tới trung học, phần lớn họ ngồi cùng một bàn. Hai người chơi với nhau rất tự nhiên, như thể anh em vậy, mẹ Trình Hạo lại là bạn học của mẹ Hiểu Lộ, nên nhà họ Chu luôn quan tâm, yêu quý và đối đãi với cậu ấy như con cái trong nhà… Sau này lớn lên, mối quan hệ của bọn anh vẫn rất tốt, đặc biệt là hai người bọn họ, tình cảm tới mức khiến những người xung quanh cũng phải đố kỵ, nên thường bị đám bạn học đàm tiếu, giống như cách nói bây giờ là tung tin đồn nhảm nhí ấy. Các bạn học nói Trình Hạo yêu Chu Hiểu Lộ, cũng có người nói Chu Hiểu Lộ thích Trình Hạo, bởi cả hai đều ưu tú và đạt thành tích cao trong học tập, hơn nữa còn có tài nghệ, một người biết đánh piano, người kia thì vẽ tranh rất đẹp. Ngoài ra Hiểu Lộ còn biết kéo violon, trong các tiết mục văn nghệ của trường, hai người luôn diễn cùng nhau. Có lẽ, đám bạn học đều cảm thấy hai người họ rất xứng đôi.
Đối mặt với những tin đồn như vậy, họ vẫn như ngầm nhất trí lựa chọn cách phớt lờ, chẳng thừa nhận cũng không phản bác. Nói ra lúc đó anh cũng ngốc thật, hoàn toàn không nhận ra mối quan hệ của Trình Hạo và Hiểu Lộ, anh còn thực sự cho rằng bọn họ chỉ là bạn bè chơi với nhau từ nhỏ, chưa bao giờ hoài nghi. Mãi tới học kỳ một năm lớp Mười hai…”.
Dòng ký ức tới đây chợt dừng lại, sự tĩnh lặng vô bờ bến dẫn dắt tinh thần Nhiếp Lạc Ngôn quay trở lại, cô có vẻ hơi hoảng hốt, hồi hộp hỏi: “Học kỳ một năm lớp Mười hai đã xảy ra chuyện gì?”.
Thực ra trong lòng Nhiếp Lạc Ngôn đã có dự cảm chẳng lành, có thể mơ hồ đoán được sự việc tiếp theo. Quả nhiên, Nghiêm Thành dừng lại một lát, rồi nói tiếp: “Vào năm học mới chưa được bao lâu, Hiểu Lộ bị bệnh phải nằm viện. Cụ thể bệnh tình như thế nào thì không ai hay biết, thầy cô giáo chỉ nói cô ấy sẽ nghỉ học một thời gian. Bọn anh tới viện thăm mà chẳng hỏi thêm được gì, có điều anh và Trình Hạo đều biết bệnh của cô ấy không hề nhẹ, bởi ngày nào cũng thấy bố mẹ Hiểu Lộ thay nhau vào viện chăm nom, trông họ rất tiều tụy. Thời gian cô ấy nằm viện cứ kéo dài mãi, không thể trở lại lớp. Thế là trong lớp lại có những lời đồn thổi về căn bệnh của Hiểu Lộ. Một hôm mấy bạn nam sinh trong lớp nhắc tới Hiểu Lộ, một người nửa đùa nửa thật nói Hiểu Lộ mắc bệnh máu trắng. Trình Hạo tình cờ nghe thấy, lập tức đi thẳng tới trước mặt cậu kia và bắt đầu đánh lộn.
… Đó là lần đầu tiên anh thấy cậu ấy đánh nhau vì một bạn gái, thậm chí việc này còn kinh động tới lãnh đạo trường, tình tiết vô cùng nghiêm trọng, suýt nữa thì bị kỷ luật. Sau đó, một mình anh tới bệnh viện thăm Hiểu Lộ, tình cờ bắt gặp Trình Hạo cũng đang ở đó, trong phòng bệnh chỉ có hai người họ. Trình Hạo ngồi cạnh giường, khuôn mặt xanh xao của Hiểu Lộ đẫm nước mắt, bàn tay chạm vào gò má bị thương của Trình Hạo, trong ánh mắt lộ rõ vẻ đau buồn”.
Nghiêm Thành dừng lại một lát, anh thở dài, tiếp tục đắm chìm trong câu chuyện xưa:
“Hôm đó anh nhìn họ qua lớp cửa kính, nhưng không bước vào.
Sau này thông tin Chu Hiểu Lộ mắc bệnh máu trắng được chứng thực, có lẽ là do di truyền, bởi bà ngoại của cô ấy cũng chết vì căn bệnh này.
Một sinh mệnh đẹp đẽ, trẻ trung như hoa, còn chưa kịp xòe nở đã héo tàn, lúc đưa tang hầu như tất cả các bạn học đều nghẹn ngào khóc không thành tiếng. Anh cũng khóc, lúc đó anh hoàn toàn không cảm thấy một người đàn ông rơi lệ trông sẽ mất mặt thế nào. Tình cảm từ nhỏ tới lớn, mười mấy năm sống bên nhau, thế mà người biến mất khỏi cuộc đời, không thể gặp được nữa, hóa thành cát bụi, mây khói và biến mất vĩnh viễn.
Nhưng chỉ có một người ngoại lệ.
Từ đầu tới cuối, Trình Hạo lặng lẽ đứng ở một góc, trước mặt là biển hoa trắng, sắc mặt cậu ấy chẳng khác gì loài hoa bạch tường vi nở rộ.
Nhưng Trình Hạo vẫn im lặng, không nói không rằng, ánh mắt vô hồn nhìn về hướng nào đó, ngay cả một giọt nước mắt cũng không rơi”.
***
Đồng hồ vẫn chạy, phát ra âm thanh tích tắc, sau một hồi yên lặng, Nhiếp Lạc Ngôn mới khẽ mở miệng, vừa như sợ hãi gì đó, vừa như than thở: “Cho nên về sau, Trình Hạo đã mắc chứng trầm cảm, đúng không?”.
“Ừm.”
Cũng chính lúc diễn ra đám tang ấy, Nghiêm Thành mới biết, thì ra tình cảm Trình Hạo dành cho Hiểu Lộ lại sâu nặng tới vậy, sâu nặng tới mức đã phải dùng phương thức khép kín bản thân để che lấp nỗi đau.
Anh cảm thấy mình đã bỏ qua rất nhiều chuyện, tự trách bản thân vì đã không kịp thời nhận ra triệu chứng của Trình Hạo, thậm chí còn không biết, rốt cuộc tình cảm giữa hai người họ bắt đầu từ khi nào.
Anh cũng không ngờ, mối tình thời niên thiếu đó cũng có thể khiến người ta rung động và khắc cốt ghi tâm như thế.
“Em biết không, thực ra lần đầu gặp em, anh đã có cảm giác em và Hiểu Lộ rất giống nhau, không phải các đường nét trên khuôn mặt giống nhau, mà là có một cảm giác nào đó. Tuy Hiểu Lộ rất xinh đẹp, luôn là hoa khôi của lớp, của trường, ngay cả khi cô ấy mắc bệnh, vẫn không cô bạn học nào có thể sánh được. Điểm giống nhất giữa em và cô ấy là nụ cười, thực sự dáng vẻ mỗi khi cười của em giống cô ấy vô cùng.”
Nhiếp Lạc Ngôn sững người, một lát sau mới cười gượng: “Vậy sao?”, nghĩ một lát, cô lại nói tiếp: “Anh nói là cô ấy biết kéo violon?”.
Thảo nào… trước đây, sau buổi biểu diễn văn nghệ của trường, cậu nam sinh tuấn tú kia dường như hơi ngỡ ngàng khi nhìn thấy cô, sau đó mím môi nhoẻn miệng cười, nhìn thẳng vào cô mà nói: “Không ngờ cậu ngoài khả năng đánh bài ra, còn chơi violon hay như vậy”.
Khuôn mặt trước giờ luôn cao ngạo từ giờ phút đó bỗng trở nên ấm áp, ánh mắt sáng lấp lánh. Cậu còn chủ động cho cô mượn ô: “Cầm lấy đi”.
Có lẽ lúc đó, cậu chỉ vì nhìn thấy cô mà nhớ tới một cố nhân. Chỉ vì cô và người đó rất giống nhau, nên mới có giao tình thân mật từ sau hôm ấy.
Cảnh tượng trong quá khứ cứ lần lượt tái hiện như những thước phim.
Cậu cõng cô đi qua con đường dài dưới những tán cây râm mát.
Dường như cậu đã hôn cô sau bữa tiệc sinh nhật.
Cậu khẽ nói xin lỗi trên bãi cát bên bờ biển mênh mang.
Bao nhiêu năm sau gặp lại, cậu nắm tay cô bước lên cầu thang tối, rồi sau mấy ngày nghe thấy ba chữ violon mà gương mặt liền biến sắc, dường như cậu đã vội vã rời đi.
Cuối cùng, tới ngày hôm nay, sự mâu thuẫn cũng như những vương vấn trong cậu, cảm