ết Hoa chúng tôi nhìn thấy họ - đàn ông, đàn bà và trẻ con - ngồi trên những chiếc xe kéo tay hay xe bò, đi bộ hay cưỡi ngựa. Đồ tể chạy ra bìa thôn và hét lên với dòng người đi tị nạn.
“Chuyện gì thế? Có loạn à?”
Nhiều giọng đáp lại.
“Hoàng thượng cho loan báo tới huyện Vĩnh Minh là triều đình phải chống giặc Thái Bình.”
“Binh mã của triều đình đã đến đây để đánh đuổi quân nổi loạn!”
“Đánh nhau khắp nơi rồi!”
Đồ tể khum hai tay đưa lên miệng và gào lên, “Thế phải làm gì bây giờ?”
“Chạy đi!”
“Chiến tranh sẽ lan đến đây ngay bây giờ đấy!”
Tôi chết điếng, bàng hoàng, sững sờ trong nỗi hoang mang tột độ. Tại sao chồng tôi không đến đây đón tôi? Tôi cứ tự đay đả mình sao lại đi chọn thời điểm này - sau bao nhiêu năm - để mà đến thăm Tuyết Hoa cơ chứ. Nhưng có lẽ đó là bản chất của định mệnh. Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên mà.
Tôi giúp Tuyết Hoa gói ghém đồ đạc cho cô và lũ trẻ. Chúng tôi đi vào bếp và thu gom một bao tải lớn gạo, trà và rượu dùng để uống và sát trùng vết thương. Cuối cùng, chúng tôi cuộn bốn tấm chăn cưới của Tuyết Hoa và quấn lại hết sức chặt chẽ và đặt chúng ở cửa. Khi mọi thứ đã sẵn sàng, tôi mặc bộ quần áo lụa dùng đi đường của mình, bước ra ngoài và đứng trên bậc thềm, và chờ chồng tôi đến, nhưng anh không đến. Tôi nhìn ra con đường về Thông Khẩu. Cũng có một dòng người đang rời khỏi đó, chỉ có điều thay vì chạy lên vùng đồi núi phía sau thôn họ lại băng qua những cánh đồng đi về phía thủ phủ huyện Vĩnh Minh. Hai dòng người kéo dài - một ngược lên đồi núi, một xuôi về phố thị - làm tôi bối rối. Có phải Tuyết Hoa luôn bảo rằng núi đồi là những cánh tay che chở cho chúng tôi đó sao? Nếu đúng, tại sao người thôn Thông Khẩu lại đi theo hướng ngược lại?
Lúc chiều muộn, tôi nhìn thấy một chiếc kiệu rời khỏi đoàn người thôn Thông Khẩu và đổi hướng tiến thẳng về Cẩm Điền. Tôi biết nó đang đi về phía tôi, nhưng đồ tể không đồng ý đợi.
“Đến lúc phải đi rồi,” gã gầm lên.
Tôi muốn ở lại và đợi gia đình tôi đến đón tôi nhưng đồ tể nói không.
“Thế thì tôi sẽ đi ra ngoài và đón kiệu,” tôi nói. Biết bao lần ngồi bên song cửa tôi đã hình dung đến chuyện đi bộ đến đây. Thế thì sao giờ tôi lại không đi bộ về phía gia đình tôi chứ?
Đồ tể chém tay vào không khí nhằm ngăn không cho tôi nói thêm một lời nào nữa. “Cả một lũ đàn ông đang đi tới đây. Cô có biết bọn chúng sẽ làm gì với một người đàn bà đi một mình không hả? Cô có biết gia đình cô sẽ làm gì tôi nếu có bất kỳ chuyện gì xảy ra với cô không?”
“Nhưng…”
“Bách Huệ,” Tuyết Hoa chen ngang, “hãy đi cùng nhà mình. Chúng ta sẽ chỉ phải đi vài tiếng thôi, rồi bọn mình sẽ trả bạn về với gia đình bạn. Như vậy sẽ an toàn hơn.”
Đồ tể đỡ mẹ, vợ, những đứa con của anh ta và cả tôi nữa lên xe. Khi gã và đứa con trai lớn chuẩn bị đẩy xe đưa chúng tôi đi, tôi ngoái nhìn qua những cánh đồng phía sau Cẩm Điền. Lửa và những cột khói cuồn cuộn bốc lên trời.
Tuyết Hoa liên tục đưa nước cho chồng và đứa con trai lớn của cô. Giờ đã là cuối thu, nên khi mặt trời lặn cái lạnh ập xuống tất cả chúng tôi, nhưng chồng và con trai Tuyết Hoa vẫn vã mồ hôi như đang giữa hè. Không cần phải bảo, Xuân Nguyệt nhảy xuống, bế theo cả đứa em trai của nó nữa. Con bé hết ẵm thằng em bên hông rồi lại chuyển sang cõng trên lưng. Cuối cùng, nó đặt thằng bé xuống đất, một tay nó nắm tay thằng bé, tay kia đặt lên chiếc xe.
Đồ tể bảo đảm với vợ và mẹ anh ta rằng một lát nữa chúng tôi sẽ dừng lại, nhưng chúng tôi cứ đi mãi không dừng. Chúng tôi trở thành một phần của dòng người bất hạnh đêm đó. Vào lúc đêm tối trông khủng khiếp nhất trước bình minh, chúng tôi tới được quả đồi dốc đứng đầu tiên. Khuôn mặt của đồ tể căng ra, mạch máu phình ra, hai cánh tay anh ta rung lên bần bật gắng sức đẩy chiếc xe lên ngọn đồi. Cuối cùng, anh ta đầu hàng, ngồi thụp xuống phía sau chúng tôi. Tuyết Hoa trượt ra mép xe, nhấc chân sang một bên rồi thả chúng xuống đất. Cô nhìn tôi. Tôi nhìn cô. Bầu trời sau lưng Tuyết Hoa đỏ rực như lửa. Những tiếng động trong gió thúc đẩy tôi bước xuống xe. Tuyết Hoa và tôi mỗi người mang trên lưng một tấm chăn. Đồ tể đeo bao gạo trên vai và mấy đứa trẻ cố gắng mang được càng nhiều đồ ăn càng tốt. Tôi hiểu ra một điều gì đó. Nếu chỉ đi một vài giờ, tại sao chúng tôi lại phải mang theo nhiều lương thực như vậy? Có lẽ tôi sẽ không được gặp chồng và con tôi trong nhiều ngày nữa. Trong lúc ấy, tôi lại ở đây giữa nơi đồng không mông quạnh, với tên đồ tể. Tôi đưa tay lên che mặt để trấn tĩnh lại. Tôi không thể để hắn thấy sự yếu đuối của mình.
Chúng tôi đi bộ, hòa vào dòng người. Tuyết Hoa và tôi nắm tay mẹ đồ tể và kéo bà ta lên đồi. Bà ta làm chúng tôi bước đi không nổi, nhưng bà ta đúng là một kẻ cầm tinh con chuột! Khi Phật tổ muốn chuột loan truyền lời dạy của mình, sinh vật xảo quyệt này đã cố gắng đòi một chuyến đi tự do tách rời ngựa. Con ngựa khôn ngoan đã nói không, đó là lý do tại sao hai tuổi này lại không hợp nhau kể từ đó. Nhưng trên con đường kinh khủng trong đêm tối gớm guốc ấy, hai con ngựa chúng tôi có thể làm được gì đây?
Những người đàn ông xung quanh chúng tôi mang bộ mặt dữ tợn. Họ đã bỏ lại đằng sau nhà cửa và sinh kế của họ, và giờ đây họ tự hỏi khi trở lại liệu họ đã thành đống tro tàn hay chưa. Khuôn mặt những người đàn bà hoen nước mắt vì sợ hãi và đau đớn vì chỉ một đêm mà họ phải đi xa hơn cả toàn bộ quãng đường mà họ đi trong suốt cuộc đời mình kể từ khi bó chân. Lũ trẻ không dám hé răng kêu ca. Chúng quá sợ hãi. Chúng tôi mới chỉ bắt đầu cuộc di tản.
Cuối buổi chiều hôm sau - chúng tôi vẫn chưa dừng lại một lần nào - đường đi thu hẹp lại thành một lối mòn càng lúc càng ngoằn ngoèo dốc đứng. Quá nhiều hình ảnh đập vào mắt chúng tôi. Quá nhiều tiếng động rít bên tai chúng tôi. Thỉnh thoảng chúng tôi lại đi qua những ông lão hoặc bà lão phải ngồi xuống để nghỉ, rồi không bao giờ đứng dậy được nữa. Ở huyện, tôi chưa bao giờ tưởng tượng nổi chuyện bố mẹ bị bỏ rơi như thế này. Thông thường, khi chúng tôi đi qua, chúng tôi nghe những tiếng lầm bầm yêu cầu, những lời sau cùng với một người con trai hay con gái và giờ lặp lại như sự nuôi dưỡng cuối cùng: “Hãy mặc ta. Hãy quay lại vào ngày mai khi mọi chuyện đã qua đi.” Hay, “Cứ đi đi. Bảo vệ những đứa con trai. Nhớ lập bàn thờ cho ta vào Lễ hội mùa xuân đấy.” Mỗi khi đi qua một người như vậy, tôi lại nghĩ về mẹ tôi. Bà không thể đi nổi trong chuyến đi như thế này chỉ với cây gậy của mình. Liệu bà có bảo để bà lại không? Liệu bố tôi có bỏ mặc bà không? Còn anh trai tôi thì sao?
Chân tôi đau đớn y như khi bó chân và cứ nhói lên mỗi khi tôi bước. Nhưng tôi vẫn còn may mắn chán. Tôi chứng kiến nhiều người đàn bà cùng tuổi tôi hay trẻ hơn - những người đàn bà trong những ngày gạo muối - bị gãy chân do phải đi bộ quá xa hay vỡ vụn ra do vấp phải đá. Từ chỗ mắt cá chân trở lên họ không bị đau, nhưng họ bị què hoàn toàn. Họ nằm lại đó, không nhúc nhích được, chỉ biết khóc lóc, chờ chết vì đói, khát hay lạnh. Nhưng chúng tôi vẫn tiếp tục bước đi, không một lần ngoái nhìn lại, chôn vùi nỗi hổ thẹn trong trái tim trống rỗng của mình, gắng hết sức bỏ ngoài tai những tiếng rên rỉ vì đau đớn và khổ sở.
Đêm thứ hai buông xuống và không gian xung quanh trở nên đen thẫm, nỗi chán nản bao trùm lấy tất cả chúng tôi. Đồ dùng cá nhân bị bỏ lại. Nhiều người bị lạc khỏi gia đình. Chồng đi tìm vợ. Mẹ đi gọi con. Giờ là cuối thu, mùa để bắt đầu việc bó chân, nên chúng tôi gặp rất nhiều cô bé chân bị gãy và bị bỏ lại đằng sau, cùng đồ ăn, quần áo thừa, nước uống, bàn thờ đem theo, quà làm của hồi môn, và đồ đạc quý giá của gia đình. Chúng tôi cũng thấy những cậu bé - ba, bốn hay năm đứa gì đấy - cầu xin mọi người đi ngang qua giúp chúng. Nhưng làm sao bạn có thể giúp chúng trong khi bạn còn phải tiếp tục bước đi, nắm chặt tay những đứa con yêu quý của mình và tay người chồng cũng đang siết chặt tay bạn? Nếu bạn đang lo sợ cho cuộc sống của bạn, bạn sẽ chẳng nghĩ đến người khác. Bạn chỉ nghĩ về những người bạn yêu quý, và thậm chí như vậy cũng chẳng xuể.
Chúng tôi không còn hơi sức đâu để mà nói với nhau rằng giờ là mấy giờ, nhưng trời đã tối và chúng tôi kiệt sức. Chúng tôi đã đi bộ hơn ba mươi sáu giờ - không nghỉ, không ăn, và thi thoảng mới uống một chút nước. Chúng tôi bắt đầu nghe thấy những tiếng kêu gào khủng khiếp. Chúng tôi không thể hình dung nó là cái gì. Nhiệt độ giảm xuống. Xung quanh chúng tôi, lá và cành cây ướt sũng sương. Tuyết Hoa mặc chiếc áo bông màu chàm còn tôi mặc bộ áo lụa của tôi. Chẳng có chiếc áo nào đủ để bảo vệ chúng tôi trước những gì sắp xảy đến. Dưới đế giày của chúng tôi, đá trở nên trơn trượt. Tôi chắc rằng chân tôi đang ứa máu, vì tự dưng tôi thấy chân mình ấm kì lạ. Tuy thế, chúng tôi vẫn bước đi. Mẹ đồ tể loạng choạng đi giữa chúng tôi. Bà ta là một bà già yếu ớt, nhưng trong tính cách loài chuột của bà ta lại có ý chí quyết sống.
Đường mòn thu hẹp lại chỉ còn rộng chừng ba mươi phân. Bên phải chúng tôi là núi - tôi không thể gọi nó là đồi được nữa - dựng đứng lên đến mức nó chạm vào vai chúng tôi khi chúng tôi lê bước theo hàng một. Bên trái, sâu hun hút bên dưới chỉ toàn bóng đêm đen ngòm. Tôi không nhìn thấy cái gì ở dưới đó. Nhưng con đường phía trước và phía sau tôi đều có rất nhiều dấu chân bó của đàn bà. Chúng tôi giống như hoa trong gió bão. Không chỉ đôi bàn chân của chúng tôi yếu ớt mà các thớ thịt trên chân chúng tôi - vốn dĩ chưa bao giờ phải đi lại vất vả đến thế - nhức nhối, run rẩy, co thắt lại.
Suốt một giờ, chúng tôi đi sau một gia đình - bố, mẹ và ba đứa con - cho đến lúc người mẹ trượt chân khi bước lên một tảng đá và rơi vào cái hố tối đen thăm thẳm phía dưới đó. Tiếng hét của bà ta rất to và kéo dài, cho đến khi nó đột ngột chấm dứt. Chúng tôi nghe kể về những cái chết như vậy suốt đêm. Từ đó, tôi đưa bàn tay này bắt tréo qua bàn tay kia, túm lấy vạt cỏ, để mặc tay mình bị những cạnh đá lởm chởm nhô ra từ vách đá bên phải cào rách. Tôi sẽ làm bất cứ điều gì để mình không trở thành một người nữa hét lên trong bóng đêm.
Chúng tôi tìm được một cái hõm núi. Núi in bóng lên nền trời xung quanh chúng tôi. Những đám lửa nhỏ được nhóm lên. Chúng tôi đã ở trên cao, lẩn vào giữa rừng núi nên quân Thái Bình không thể nào thấy được ánh lửa, hay ít ra chúng tôi hy vọng như vậy. Chúng tôi lách đi xuống chỗ hõm núi.
Có lẽ vì tôi không được ở với gia đình mình nên tôi chỉ thấy khuôn mặt của những đứa bé qua ánh lửa. Đôi mắt chúng nhìn có vẻ đờ đẫn và trống rỗng. Có lẽ chúng đã mất ông nội hay bà nội. Cũng có lẽ chúng mất mẹ hay chị gái. Chúng đều sợ hãi. Không ai nên nhìn thấy những đứa bé trong tình cảnh như thế.
Chúng tôi dừng lại khi Tuyết Hoa thấy ba gia đình đến từ Cẩm Điền vừa tìm thấy một chỗ trú tương đối tốt dưới tán cây lớn. Họ nhìn thấy đồ tể vác bao gạo trên lưng và chui vào đó chiếm chỗ cho chúng tôi bên đống lửa. Khi tôi ngồi xuống huơ chân và tay, chúng bắt đầu nóng lên, không phải do sức nóng của lửa mà là xương thịt bị đóng băng lại nay tan ra.
Tuyết Hoa và tôi chà xát bàn tay mấy đứa con cô. Chúng lặng lẽ khóc, kể cả đứa con trai lớn nhất. Chúng tôi đẩy ba đứa trẻ lại với nhau và lấy chăn quấn quanh người chúng. Tuyết Hoa và tôi nép mình vào nhau, còn bà mẹ chồng của cô thì một mì