một lần vào buổi sáng và một lần vào buổi tối. Biết rõ cách căn bệnh này lây lan từ người bị nhiễm bệnh, tôi tự tay mang chiếc bô trong buồng ra ngoài đổ đi, thận trọng tránh không để bất cứ thứ gì từ khu đổ phân chạm vào tay, chân, quần áo hay chiếc bô của chúng tôi. Tôi kéo thứ nước đen đen từ giếng, đun sôi lên và sau đó lọc đi sạch và trắng hết mức có thể. Tôi cũng lo ngại về thức ăn, nhưng chúng tôi vẫn phải ăn. Tôi không biết phải làm gì. Liệu mẹ con tôi có nên ăn những thực phẩm chưa đun nấu, lấy trực tiếp ở vườn nhà không? Nhưng khi tôi nghĩ về việc phân được sử dụng trên những cánh đồng thế nào và cách mà bệnh tật lan ra bao nhiêu như thế, tôi biết là không nên làm vậy. Tôi nhớ lại một món mẹ tôi luôn nấu cho ăn khi tôi ốm - cháo. Tôi bèn nấu nó mỗi ngày hai lần.
Thời gian còn lại chúng tôi nhốt mình trong buồng. Suốt ngày, chúng tôi nghe thấy người ta chạy đi chạy lại. Tối đến, những tiếng la hét vì đau đớn từng đợt từng đợt của trẻ bị bệnh và tiếng khóc đau khổ của những người mẹ vọng đến tai chúng tôi. Sáng ra, tôi áp tai vào cửa để nghe ngóng tin tức về những người vừa mới qua đời. Những người thiếp, vì không có ai chăm sóc họ ngoài chính bản thân họ, hẳn sẽ chết trong đau đớn và cô độc nếu không có người đàn bà mà xưa nay họ vẫn âm mưu chống lại.
Bất kể ngày hay đêm, tôi luôn phấp phỏng về Tuyết Hoa và chồng tôi. Liệu cô có thử cách phòng bệnh giống như tôi đang làm không? Cô có khỏe không? Liệu cô có chết không? Liệu có phải đứa con trai đầu lòng thảm hại của cô đã mắc bệnh rồi qua đời? Phải chăng cả gia đình bên đó đều chết hết cả? Còn chồng tôi hiện giờ ra sao? Có phải anh đã chết ở một phủ khác hay trên đường đi rồi không? Nếu có điều gì xảy ra cho một trong hai người ấy, tôi không biết mình sẽ làm gì nữa. Tôi cảm thấy mình bị giam cầm trong sợ hãi.
Buồng ngủ của tôi chỉ có một cửa sổ, mà nó lại quá cao để tôi có thể trông ra bên ngoài. Mùi của những cái xác nhiễm bệnh và trương phình lên đặt trước các nhà lan khắp bầu không khí ẩm ướt. Chúng tôi bịt mũi, bịt miệng, nhưng vẫn không ngăn được mùi - mùi hôi thối làm mắt chúng tôi hoa lên và lưỡi mất hết cả cảm giác. Trong đầu mình tôi điểm lại những việc phải làm: thường xuyên cầu khấn Phật Bà phù hộ. Quấn lũ trẻ bằng vải đỏ thẫm. Quét buồng một ngày ba lần để làm cho ma quỷ đi săn lùng nạn nhân hoảng sợ bỏ chạy. Tôi cũng liệt kê mọi thứ phải nhịn: không ăn đồ rán, không ăn đồ xào. Nếu chồng tôi có nhà, chúng tôi cũng sẽ không ân ái. Nhưng anh lại đang đi vắng, và tôi chỉ phải thận trọng cho chính mình.
Một hôm khi tôi nấu cháo đặc, mẹ chồng tôi vào bếp với con gà chết trên tay.
“Có cố giữ những thứ này cũng chẳng ích gì,” bà nói cộc cằn. Khi bà tháo khớp xương gà và băm tỏi, bà nhắc nhở, “các con cô sẽ chết vì không có thịt và rau. Cô sẽ làm chúng chết đói mất trước khi chúng kịp mắc bệnh.”
Tôi nhìn chằm chằm vào con gà. Tôi muốn ứa nước miếng và bụng tôi bắt đầu sôi lên, nhưng lần đầu tiên từ khi lấy chồng tôi phải giả điếc. Tôi không trả lời. Tôi chỉ múc cháo vào bát và đặt vào khay. Trên đường về buồng mình, tôi dừng lại trước cửa phòng chú Lữ, gõ cửa, và mang một bát cho chú. Bạn thấy không, tôi phải làm như vậy? Chú không chỉ là người cao tuổi nhất và đáng kính nhất trong gia đình tôi mà còn là thầy của con trai tôi. Thánh hiền xưa vẫn dạy rằng, trong các mối quan hệ rường cột, quan hệ thầy trò chỉ đứng sau quan hệ cha con.
Còn những bát cháo khác tôi chia cho các con tôi. Khi Bích Ngọc cự nự rằng cháo gì mà chẳng có hành, chẳng có thịt, thậm chí cũng không có dưa muối, tôi tát nó một cái trời giáng. Những đứa khác đành nuốt hết mọi lời than phiền, trong khi chị của chúng mím môi và gạt nước mắt. Tôi chẳng buồn chú ý đến chuyện đó, chỉ cầm lấy cây chổi và lại quét nhà.
Nhiều ngày trôi qua và vẫn chưa có triệu chứng nào trong buồng của chúng tôi, nhưng giờ đến lượt tiết trời nóng ngột ngạt bủa vây chúng tôi, khiến mùi hôi thối của những người bệnh và xác chết càng xông lên nồng nặc. Một tối nọ, khi bước vào bếp, tôi thấy cô em dâu thứ ba đứng giữa căn phòng tối om vận đồ tang trắng từ đầu đến chân trông như một bóng ma. Nhìn vẻ ngoài của cô ta tôi đoán là chồng và những đứa con của cô ta hẳn đã chết. Tôi đứng chết trân tại chỗ trước ánh mắt trống rỗng, vô hồn của cô ta. Cô ta không nhúc nhích, mà cũng chẳng nhận ra là tôi chỉ cách trước mặt cô ta một mét. Tôi sợ đến mức không quay trở lại hay bước tiếp được nữa. Ngoài kia, tôi nghe thấy tiếng cú đêm kêu thảm thiết và tiếng phì phò của những con trâu. Trong lúc hoảng hốt, tôi chợt có một ý nghĩ ngớ ngẩn. Tại sao những con vật ấy không chết quách đi? Hay là chúng đang chết mà chẳng còn ai để nói cho tôi biết?
“Đồ con lợn vô dụng!” Một giọng ác nghiệt và chát chúa vang lên từ đằng sau tôi.
Cô em dâu thứ ba không hề chớp mắt, nhưng tôi quay lại để xem ai vừa nói. Là mẹ chồng tôi. Búi tóc của bà sổ tung và xõa xuống mặt thành từng làn trơn óng. “Lẽ ra chúng ta không nên rước mày về nhà này làm gì. Mày đang hủy hoại cả dòng tộc nhà họ Lữ, đồ tởm lợm, đồ con lợn bẩn thỉu.”
Mẹ chồng tôi thẳng tay giáng một cái tát vào mặt cô em dâu thứ ba, cô ta chẳng còn chút ý thức nào để mà chùi rửa mặt mày lem luốc của mình nữa.
“Tao nguyền rủa mày,” mẹ chồng tôi nói, mặt bà đỏ gay vì giận dữ và đau đớn. “Tao muốn mày chết luôn đi. Nếu mày không chết - cầu trời, hãy làm nó phải đau đớn quằn quại - ông chủ Lữ sẽ bán mày cho người khác vào mùa thu này. Nhưng nếu là tao, tao sẽ không để mày được sống mà nhìn thấy mặt trời.”
Dứt lời, mẹ chồng tôi, không biết có sự hiện diện của tôi, quay ngoắt đi, vịn vào tường, rồi lảo đảo rời khỏi bếp. Tôi quay lại chỗ cô em dâu, trông có vẻ như đã lạc ra khỏi thế giới này. Mọi thứ đều mách bảo tôi rằng cái việc tôi sắp làm là sai lầm, sai lầm nhưng tôi vẫn đưa tay ra, ôm lấy cô ta, và dẫn cô đến chiếc ghế. Tôi đun nước, rồi bằng tất cả lòng can đảm, tôi có thể thấy mình đang nhúng mảnh khăn vào xô nước lạnh và lau mặt cho cô em dâu. Tôi ném chiếc khăn vào lò than và nhìn nó bốc cháy. Khi nước sôi, tôi pha một ấm trà, rót ra một tách cho cô em dâu tôi, và đặt trước mặt cô ta. Cô ta không cầm lấy nó. Tôi không biết mình có thể làm gì hơn được nữa, vì thế tôi bắt đầu nấu cháo, nhẫn nại quấy dưới đáy nồi để gạo không bị dính hay cháy.
“Tôi thấy căng thẳng khi nghe bọn trẻ la khóc. Tôi tìm chồng mình khắp nơi.” Cô em dâu thứ ba lẩm bẩm. Tôi quay lại nhìn cô, nghĩ cô đang nói chuyện với mình. Nhưng đôi mắt cô ta lại bảo cho tôi biết là không phải. “Nếu tôi tái giá, làm thế nào tôi có thể gặp lại chồng và các con tôi ở thế giới bên kia bây giờ?”
Tôi không tìm được lời nào khả dĩ an ủi cô, vì chẳng có từ nào cả. Cô ta không có một cái cây lớn để tựa vào mà cũng không có quả vững chãi ở đằng sau che chở. Cô lắc lư ra khỏi gian bếp trên đôi gót sen mỏng manh, yếu ớt như chiếc đèn được thả lên trời trong lễ hội hoa đăng và bị gió cuốn bay xa. Tôi quay lại quấy nồi cháo.
Sáng hôm sau, khi tôi xuống nhà, có vẻ như có sự thay đổi nào đó. Dũng Cảm và hai người hầu khác đã quay về và đang lau dọn căn bếp và chất đống củi đốt. Dũng Cảm báo cho tôi biết là mọi người phát hiện ra em dâu thứ ba đã chết vào sáng sớm. Cô ta đã tự vẫn bằng cách nuốt thuốc tẩy quần áo. Tôi vẫn thường tự hỏi liệu điều gì sẽ xảy ra nếu cô ta đợi thêm vài giờ nữa, vì vào bữa trưa mẹ chồng tôi bắt đầu lên cơn sốt. Hẳn là bà đã mắc bệnh vào đêm hôm trước khi bà nghiệt ngã đến thế.
Giờ đây tôi chỉ có một lựa chọn kinh khủng. Tôi đã cố gắng bảo vệ lũ con tôi bằng cách nhốt chúng trong buồng, nhưng trách nhiệm của một người con dâu cả đối với bố mẹ chồng cao hơn hẳn mọi việc khác. Hầu hạ họ không có nghĩa chỉ là dâng trà vào buổi sáng, giặt giũ quần áo cho họ, hay nghe lời mắng chửi mà vẫn phải giữ bộ mặt tươi cười. Hầu hạ họ có nghĩa là phải tôn kính họ hơn bất cứ ai - hơn cả bố mẹ tôi, hơn cả chồng tôi, hơn cả con tôi. Trong khi chồng tôi thì đi xa, tôi phải quên đi nỗi sợ hãi bệnh tật, gạt bỏ mọi tình cảm với con cái ra khỏi trái tim mình, và làm mọi việc đúng đắn. Nếu tôi không làm thế và mẹ chồng tôi mất đi, tôi sẽ mang nỗi nhục đó suốt đời.
Nhưng tôi không bỏ mặc lũ con tôi dễ dàng như vậy. Các cô em dâu khác của tôi cùng gia đình họ đều ở hết trong phòng mình. Tôi không biết chuyện gì đang xảy ra sau những cánh cửa đóng kín ấy. Có thể họ đã đổ bệnh hết thảy. Có thể họ đã chết hết cả rồi. Tôi cũng không thể tin tưởng để bố chồng tôi chăm sóc các con tôi. Chẳng phải là ông đã ngủ cùng vợ mình đêm qua sao? Biết đâu ông lại là người đổ bệnh tiếp theo? Và tôi không hề thấy mặt chú Lữ từ khi bệnh dịch bắt đầu hoành hành, mặc dù buổi sáng và buổi tối ông vẫn bỏ chiếc bát không trước cửa phòng mình để tôi múc cháo vào.
Tôi ngồi trong bếp, những ngón tay đan vào nhau lo lắng. Dũng Cảm bước vào, quỳ xuống trước mặt tôi và nói, “con sẽ trông chừng các cô cậu.”
Tôi nhớ lại con bé đã hộ tống tôi đến nhà Tuyết Hoa ngay sau lễ cưới, đã chăm sóc tôi khi tôi sinh con, đã trung thành và kín đáo ra sao khi mang những lá thư của tôi đến cho lão đồng. Con bé đã làm tất cả những việc đó vì tôi, và bao lâu nay tôi không hề để ý rằng từ một con bé mười tuổi nay nó đã là một thiếu nữ cao lớn chân to ở tuổi hai mươi tư. Với tôi, nó vẫn xấu xí như cái bĩm lợn, nhưng tôi biết nó chưa mắc bệnh và nó sẽ chăm sóc những đứa con của tôi như con của chính mình.
Tôi chỉ bảo con bé tỉ mỉ là tôi muốn nước và thức ăn của lũ trẻ phải được chuẩn bị như thế nào, rồi tôi đưa cho nó con dao để phòng khi tình hình trở nên tồi tệ hơn và con bé phải gác cửa. Dặn dò con bé xong xuôi, tôi đành phó mặc những đứa con của mình cho số mệnh và chú tâm chăm sóc bố mẹ chồng.
Năm ngày sau đó, tôi chăm sóc mẹ chồng tôi bằng tất cả mọi phương cách mà một cô con dâu có thể làm. Tôi lau rửa nửa người bên dưới của bà vì bà không còn đủ sức để đi vào bô nữa. Tôi cũng nấu cháo cho bà như tôi đã nấu cho các con tôi; rồi tôi cắt tay mình như tôi từng thấy mẹ tôi làm để cái dòng chất tinh túy của tôi có thể hòa vào bát cháo. Đây là món quà cao quý nhất của một cô con dâu, và tôi đã tặng nó đi, hy vọng nhờ một phép màu nào đó, cái tinh chất đã đem lại cho tôi sức sống ấy sẽ truyền sang cho bà.
Nhưng tôi không cần phải kể hết với các bạn căn bệnh này khủng khiếp đến mức nào. Các bạn đều biết điều gì sẽ xảy ra. Bà ấy chết. Bà vẫn luôn công bằng và thường đối xử tốt với tôi, vì thế thật đau lòng khi phải nói lời vĩnh biệt. Khi bà trút hơi thở cuối cùng tôi biết rằng tôi không thể làm được mọi việc cần thiết cho một người đàn bà với tầm vóc ấy. Tôi lau rửa thân thể lấm bê lấm bết phân và khô đét của bà bằng nước ấm và xức dầu đàn hương. Tôi mặc cho bà bộ quần áo mừng thọ và gài những bài viết bằng nữ thư của bà vào túi áo, tay áo và áo dài thắt lưng. Không giống như một người đàn ông, bà không viết để lưu dành muôn thuở. Bà viết để kể với bạn bè của mình những suy nghĩ và cảm xúc của bà, và họ cũng viết lại cho bà như vậy. Trong hoàn cảnh khác, hẳn tôi sẽ phải đốt những thứ đó trước mộ của bà. Nhưng với cái nóng và dịch bệnh này, phải nhanh chóng chôn cái xác mà không cần phải quá bận tâm về phong thủy, nữ thư, hay đạo hiếu làm gì. Tất cả những gì tôi có thể làm là đảm bảo rằng mẹ chồng tôi sẽ có thể tìm được yên ủi trong việc đọc và hát lên những lời tâm t