mái nhà đó - vẫn chịu sự điều khiển của bà mẹ. Biết rằng Tuyết Hoa không có gì và cũng chẳng còn ai bênh vực, mẹ chồng cô càng tìm cách châm chọc cô nhiều hơn, còn chồng cô thì ngày càng ít bênh vực cô hơn. Tuy nhiên, Tuyết Hoa lại tìm thấy niềm vui với thằng bé thứ hai, từ đứa bé còn ẵm ngửa nay đã lớn lên thành một thằng bé khỏe mạnh đang chập chững bước đi. Mọi người đều yêu quý thằng bé, họ chắc rằng đứa con trai đầu sẽ không sống nổi đến khi sinh nhật mười tuổi, chứ nói gì đến tuổi hai mươi.
Mặc dù hoàn cảnh của Tuyết Hoa không được cao quý như tôi, song cô lại chịu khó để ý và nghe ngóng hơn tôi. Lẽ ra tôi đã phải nghĩ đến chuyện này. Cô luôn luôn để ý đến việc bên ngoài hơn tôi. Cô giải thích cho tôi rằng quân phiến loạn mà tôi vẫn nghe kể được gọi là quân Thái Bình và họ muốn đạt được một trật tự hài hòa hơn. Cũng giống như người Dao, họ tin rằng ma quỷ, thần thánh chi phối mùa màng, sức khỏe, và chuyện sinh con trai. Quân Thái Bình cấm rượu, thuốc phiện, cờ bạc, nhảy múa và thuốc lá. Họ cho rằng cần phải tịch thu đất đai của địa chủ, những kẻ sở hữu tới chín phần đất đai và tận thu tới bảy phần hoa lợi, và những người lao động trên đồng sẽ phải được chia đều hoa lợi. Ở tỉnh chúng tôi, hàng trăm ngàn người đã bỏ nhà đi theo quân Thái Bình và chiếm đóng nhiều thôn mạc, thành phố. Cô kể về vị lãnh tụ của quân khởi nghĩa, người tin rằng mình là con trai của một vị thần nổi tiếng, về lãnh địa gì đó mà ông ta gọi là Thái Bình Thiên Quốc, về sự ghê tởm của ông ta đối với người ngoại quốc và chế độ mục nát này. Tôi không thể hiểu nổi những điều Tuyết Hoa cố gắng kể cho tôi nghe. Với tôi, một người ngoại quốc là ai đó đến từ một huyện khác. Tôi chỉ sống trong bốn bức tường của căn buồng trên gác, còn đầu óc Tuyết Hoa thì lúc nào cũng bay bổng tới những vùng đất xa xôi, nhìn ngắm, tìm kiếm, và thắc mắc.
Khi tôi trở về nhà chồng và hỏi chồng tôi về quân Thái Bình, anh chỉ bảo, “một người vợ chỉ nên chăm sóc cho các con mình và lo sao cho gia đình được êm ấm hạnh phúc. Nếu gia đình nàng làm nàng băn khoăn về chuyện đó, thì lần sau ta sẽ không cho phép nàng về nữa đâu.”
Từ đó tôi không bao giờ dám hé một lời về chuyện bên ngoài nữa.
THIẾU MƯA và mùa màng thất thu khiến mọi người ở Thông Khẩu đều bị đói - từ đứa con gái thứ tư thấp kém nhất cho đến chú Lữ - nhưng tôi cũng chưa thấy lo lắng cho đến khi thấy kho thóc bắt đầu trống trơn. Chẳng mấy chốc mẹ chồng tôi bắt đầu đặt ra những quy tắc cấm rót trà tràn ra ngoài và đốt lửa quá to trong lò. Bố chồng tôi cố nhịn không gắp nhiều thịt trong đĩa thức ăn chính, để các cháu trai của mình ăn những thực phẩm quý giá này trước. Chú Lữ, người từng sống trong hoàng cung, không hề than thở một lời, trừ khi là về tình cảnh thất thế của ông, ông lại càng đòi hỏi con trai tôi khe khắt hơn, hy vọng rằng thằng bé sẽ đưa gia đình trở lại thời kỳ thịnh vượng.
Điều này gây trở ngại cho chồng tôi. Đêm đến, khi tắt đèn đi ngủ, anh tâm sự với tôi: “Chú Lữ nhìn thấy điều gì đó ở con trai chúng ta, và ta rất vui khi chú nhận dạy dỗ thằng bé. Nhưng giờ ta nhìn về phía trước và thấy rằng lẽ ra chúng ta nên gửi nó đi để theo đuổi việc học hành của nó. Làm sao chúng ta có thể làm được việc đó khi cả huyện đều biết rằng chúng ta sẽ phải bán ruộng đi để mua lương thực?” Trong bóng tối, chồng tôi nắm lấy tay tôi. “Bách Huệ, ta có một ý này và cha cũng cho là hay, nhưng ta lo cho nàng và các con trai của chúng ta.”
Tôi chờ đợi, sợ hãi những gì anh sắp nói.
“Người ta cần một số thứ để sống,” anh nói tiếp. “Không khí, ánh nắng, nước và củi thì sẵn có, nếu không muốn nói là luôn thừa thãi. Nhưng muối thì không như vậy, mà mọi người đều cần muối để sống.”
Tay tôi siết chặt lấy tay anh. Vậy ý định của anh là gì đây?
“Ta đã hỏi cha xem liệu ta có thể đem theo số tiền dự trữ cuối cùng của nhà mình,” anh nói, “để đến Quế Lâm, mua muối, và mang về đây bán hay không. Cha đã cho phép rồi.”
Có nhiều hiểm họa hơn so với những gì tôi có thể chỉ ra. Quế Lâm là tỉnh bên cạnh. Để tới được đó, chồng tôi sẽ phải đi qua vùng quân khởi nghĩa chiếm đóng. Những người không tham gia nghĩa quân là những nông dân bị cắt hết đường sống mất nhà mất cửa và trở thành thổ phỉ chặn cướp những người dám đi qua vùng đó. Buôn muối vốn dĩ là một việc nguy hiểm, đó là một trong những lý do khiến muối luôn luôn khan hiếm như thế. Lái buôn muối ở tỉnh chúng tôi có những đội quân của riêng họ, còn chồng tôi thì đơn độc. Anh chưa từng đối phó với các thủ lĩnh phiến quân và đám lái buôn xảo quyệt. Nếu tất cả những điều này còn chưa đủ, thì đầu óc đàn bà của tôi còn tưởng tượng ra rằng chồng tôi sẽ gặp nhiều người đàn bà xinh đẹp ở Quế Lâm. Nếu anh thành công trong chuyến đi này, có thể anh sẽ mang theo một vài người nữa về làm thiếp. Sự yếu đuối của đàn bà vuột thốt ra khỏi miệng tôi trước tiên.
“Xin đừng ngắt những đóa hoa dại,” tôi nài nỉ anh, dùng lối uyển ngữ về loại đàn bà mà có thể anh sẽ gặp phải.
“Giá trị của một nguời vợ là ở cái nết, đâu phải ở cái đẹp,” anh bảo đảm. “Nàng đã sinh cho ta những đứa con trai. Thân xác ta có thể lênh đênh phương xa, nhưng mắt ta sẽ không khi nào nhìn những gì ta không nên nhìn.” Anh ngừng lại, rồi nói tiếp, “hãy chung thủy, tránh mọi cám dỗ, vâng lời mẹ ta, và chăm sóc các con chu đáo nhé.”
“Thiếp sẽ không làm tệ hơn,” tôi hứa. “Nhưng thiếp không lo cho mình.”
Tôi cố nói với chàng về những nỗi lo khác, nhưng chàng đáp lại, “chúng ta phải ngừng sống tiếp vì một số người không hạnh phúc ư? Chúng ta vẫn phải tiếp tục sử dụng những con đường và những dòng sông. Chúng thuộc về mọi người dân trên đất nước Trung Hoa này.”
Anh nói là có thể sẽ đi xa một năm.
TỪ LÚC chồng tôi đi, tôi thấy lo lắng. Ngày tháng trôi đi, nỗi lo âu và hoảng sợ trong tôi càng ngày càng lớn lên. Nếu có điều gì đó xảy đến với anh, điều gì sẽ xảy ra với tôi? Là một bà góa, tôi sẽ có rất ít lựa chọn. Vì các con tôi còn quá nhỏ để có thể chăm sóc cho tôi, có thể bố chồng tôi sẽ bán tôi cho một người đàn ông khác. Biết rằng nếu chuyện đó xảy ra, tôi sẽ không bao giờ còn gặp lại các con mình nữa, tôi đã hiểu vì sao có nhiều bà góa tự vẫn đến thế. Nhưng tôi không định ngồi khóc hoài khóc hủy vì những chuyện có thể xảy ra. Bề ngoài tôi cố tỏ ra điềm tĩnh khi ở căn buồng trên gác, dù trong thâm tâm tôi khổ sở vì lo lắng cho sự an toàn của chồng tôi.
Khao khát được nhìn thấy đứa con trai đầu lòng hòng xoa dịu lòng mình đôi chút, tôi đã làm một việc trước đây tôi chưa bao giờ làm. Mỗi ngày tôi mang trà cho những người đàn bà trong buồng nhiều lần; rồi khi đã xuống nhà, tôi ngồi lặng lẽ cách một quãng đủ để nghe thấy chú Lữ giảng bài cho con trai tôi.
“Thiên, Địa, Nhân thị vị tam tài,” con trai tôi lặp lại. “Nhật, Nguyệt, Tinh thị vị tam quang. Những cơ hội do Trời mang lại không bằng những thuận lợi mà Đất ban cho, những thuận lợi Đất ban cho lại chẳng sánh nổi hạnh phúc do sự hòa hợp giữa con người đem tới.”
“Mọi đứa trẻ đều có thể nhớ những lời này, nhưng ý nghĩa của nó là gì nào?” chú Lữ giọng nghiêm khắc đòi một câu trả lời chính xác.
Bạn nghĩ là con trai tôi có thể trả lời sai ư? Không đâu, và tôi sẽ kể cho bạn nghe lý do tại sao. Nếu nó không trả lời đúng hay nhắc lại không chính xác, chú Lữ sẽ quật vào bàn tay nó thật đau bằng roi mây. Nếu hôm sau nó nói sai, nó sẽ ăn đòn gấp đôi.
“Trời ban bốn mùa cho con người, nhưng nếu không cho Đất phì nhiêu, thì điều đó chỉ là vô dụng,” con trai tôi trả lời. “Và đất đai phì nhiêu cũng vô dụng nếu không có sự hòa hợp giữa con người.”
Ngồi trong góc tối, tôi mỉm cười hãnh diện, nhưng chú Lữ không kết thúc bài học chỉ nhờ một câu trả lời đúng.
“Rất tốt. Nào, bây giờ chúng ta sẽ nói về đế quốc. Nếu con làm cho gia đình mình thịnh vượng và tuân theo những luật lệ ghi trong Kinh Lễ, thì gia đình sẽ yên bình trật tự. Mọi gia đình đều yên bình trật tự thì đất nước sẽ yên ổn, ngôi vua sẽ vững vàng. Nhưng cuộc nổi loạn này sẽ làm nảy sinh cuộc nổi loạn khác, chả mấy chốc sẽ dẫn đến bạo loạn. Cậu bé, chú ý nhé. Gia đình chúng ta sở hữu nhiều đất đai. Ông nội của con quản lý nó khi ta đi vắng, nhưng giờ mọi người đều biết ta không còn quan hệ gì với triều đình nữa. Bọn họ đã thấy và nghe nói về những cuộc nổi loạn; chúng ta phải rất, rất cẩn thận.”
Nhưng điều khiến ông sợ hãi đến thế không phải là do cuộc nổi dậy của quân Thái Bình. Điều tôi nghe được cuối cùng trước khi những vận xấu giáng xuống đầu chúng tôi là Tuyết Hoa lại có mang. Tôi thêu tặng cô một chiếc khăn tay chúc cô khỏe mạnh và hạnh phúc trong những tháng sắp tới, rồi trang trí hình một con cá bạc nhảy lên khỏi mặt nước xanh, tin rằng đó là hình ảnh tốt lành và tươi mát nhất tôi có thể thêu tặng ai đó có mang vào mùa hè.
NĂM ĐÓ cái nóng rang người đến sớm. Còn quá sớm để quay về nhà bố mẹ đẻ của tôi, nên đám đàn bà chúng tôi và những đứa trẻ cứ phải ở trong buồng phụ nữ mòn mỏi chờ đợi, chờ đợi, và chờ đợi. Khi tiết trời ngày càng nóng bức, những người đàn ông ở Thông Khẩu và mấy thôn xung quanh dắt trẻ con ra sông bơi lội. Đó cũng chính là dòng sông nơi tôi ngâm đôi chân mình trong dòng nước mát của nó khi còn bé, vì thế tôi rất thích thú khi bố chồng và các em trai chồng tôi bảo sẽ đưa mấy đứa trẻ ra sông. Nhưng đó cũng chính là dòng sông mà những cô gái chân to giặt giũ và - khi nước trong các giếng trở nên chua lòm vì ấu trùng sâu - đi xách nước về để nấu nướng và uống.
Ca thương hàn đầu tiên xuất hiện tại thôn lớn nhất trong huyện - thôn Thông Khẩu của tôi. Nó rơi đúng vào cậu quý tử của một trong những tá điền của gia đình chúng tôi, sau đó lan ra khắp cả nhà và giết chết không chừa một ai. Khi mắc phải người bệnh có triệu chứng sốt, kèm theo cơn đau đầu dữ dội, rồi bụng đau quặn lên. Thỉnh thoảng kèm theo cơn ho đến khản cổ, hay nổi đầy mẩn đỏ. Nhưng một khi đã bị tiêu chảy, thì cái chết thảm thương sẽ chỉ còn là vấn đề thời gian. Ngay khi biết tin đứa trẻ đó mắc bệnh, chúng tôi biết điều gì sẽ xảy ra sau đó. Đầu tiên đứa trẻ chết, sau đó đến các em trai và em gái của nó, rồi mẹ nó, bố nó. Đó là những chuyện mà chúng tôi vẫn nghe đi nghe lại, vì người mẹ không thể bỏ mặc đứa con bệnh tật của mình và người chồng thì không thể bỏ mặc người vợ sắp chết. Chẳng mấy chốc tất cả các thôn đều có người mắc bệnh.
Nhà họ Lữ đóng cửa không tham gia vào đời sống của thôn nữa. Tôi tớ trong nhà đi sạch cả, có thể là bố chồng tôi đã cho họ đi, cũng có thể là vì sợ bệnh mà bỏ chạy. Cho đến hôm đó, tôi vẫn không hề biết chuyện. Những người đàn bà trong gia đình tôi kéo hết lũ trẻ lên căn buồng phụ nữ, tin rằng đó là nơi an toàn nhất. Đứa con trai còn ẵm ngửa của cô em dâu thứ ba là đứa đầu tiên xuất hiện những triệu chứng. Trán nó khô và nóng ran. Hai má nó ửng đỏ lên. Tôi nhận thấy điều đó và đưa các con mình vào buồng ngủ của vợ chồng tôi. Tôi gọi thằng lớn về. Không có chồng tôi ở đây, lẽ ra tôi phải đầu hàng khát vọng muốn ở cùng ông chú vĩ đại của nó và những người đàn ông khác trong nhà, nhưng tôi không cho nó sự lựa chọn nào cả.
“Chỉ khi nào mẹ rời khỏi căn buồng này,” tôi nói với đàn con. “Anh cả sẽ đảm trách trông chừng các con khi mẹ không có ở đây. Các con phải nhất nhất nghe lời anh đấy nhé.”
Mỗi ngày trong cái mùa đáng sợ đó, tôi chỉ rời khỏi phòng