e chuyện phiếm của một đám tâm thần, vừa không ngơi tay đem tuýp kem chống nắng hiệu Armani trộm được từ tủ hóa trang của Cố Ly, bôi bôi trát trát lên trên khuôn mặt mềm mại trắng nõn của nó, động tác nhẹ nhàng tao nhã mà vô cùng quyến rũ, trông như đang phủ một lớp men trắng ngần lên đồ gốm vậy.
Còn Đường Uyển Như ngồi cạnh Nam Tương, lúc này cũng nối gót theo sau bắt đầu bôi gì đó, theo suy luận logic đó phải là thứ dạng như kem chống nắng (…), nhưng nhìn bao bì bên ngoài, thông thường kem chống nắng sẽ không to như thế, tôi ngờ rằng nó đã lấy nhầm hộp. Động tác của nó cũng tao nhã mà quyến rũ chẳng kém, trông giống đang trát vữa lên bức tường gạch vậy.
Neil nhìn mấy đứa chúng tôi đang bận bịu, liền tỏ vẻ hoài nghi: “Phụ nữ các cô có đúng là sợ bị nắng cháy như vậy không? Tôi còn thích phơi nắng là đằng khác.”
“Em là đồ quỷ tây dương, toàn thân khoác lớp da giống như mắc bệnh bạch biến, làm sao so với bọn chị được, định dọa ai hả, sao không đi khiêu chiến với công chúa Bạch Tuyết ấy! Em thật sự đã nắng hóa dưới ánh mặt trời rồi, chỉ có điều hóa thành sữa tươi Deluxe nguyên chất mà thôi, còn chị và Nam Tương sẽ hóa thành một cốc trà xanh, Lâm Tiêu sẽ hóa thành một tách Capuchino, còn như Đường Uyển Như, thì chính là một thùng nhựa đường.” Cố Ly nói ồm ồm từ phía sau chiếc mặt nạ.
“Em không phải quỷ tây dương, mà cũng thích phơi nắng đấy thôi.” Cố Hoài ngồi bên cạnh, cười ủng hộ Neil. Không biết tại sao, nụ cười của cậu ta luôn khiến tôi thấy khó chịu, dù nét cười đó vừa tinh tế vừa hững hờ, toát lên vẻ điềm đạm của trong gia đình gia giáo nghiêm khắc, nhưng nó luôn khẽ vương lại trên mặt mà không đi vào sâu nơi đáy mắt. Con ngươi trông như hai viên kim cương đen bị băng đá bao bọc. Lạnh giá vô cùng không tan chảy được. Thực tình, tôi vẫn không thích cậu ta lắm, lẩn khuất phía sau vẻ không thích, thực ra có chút sợ hãi.
“Nhưng theo chị, em đừng phơi nhiều quá”, Cố Ly nhìn gương mặt tinh tế răng trắng môi hồng của Cố Hoài, mà liên tục phun nọc độc ra từ phía sau mặt nạ, “Chị sợ chút nữa bọn chị tán chuyện đến mức cao trào, thì em ngồi bên cạnh đã lặng lẽ hóa thành làn khói trắng sau mấy tiếng xèo xèo rồi.” Rõ ràng dạo gần đây, Cố Ly xem quá nhiều phim ma cà rồng.
“Chả trách chị lại đeo mặt nạ như vậy, té ra là sợ hóa thành làn khói trắng, em hiểu rồi.” Cố Hoài ngồi uống cà phê, đôi mắt trông về nơi xa xăm nào đó, chẳng nhìn Cố Ly mà phản công với giọng điệu mỉa mai, ngưng lại giây lát, cậu ta nhếch đôi chân mày rậm rạp được cắt tỉa gọn gàng một cái, rồi bồi thêm một nhát, “thảo nào chị lại sợ chiếc máy hút bụi trong nhà bếp đến thế.”
Tôi thấy Cố Ly hít một hơi thật sâu sau chiếc mặt nạ, rồi vươn bộ móng ra dùng lực véo một cái lên ngực Cố Hoài: “Muốn chết hả em trai!”
Nói đến chuyện chống nắng, mấy đứa bọn tôi, kể cả Đường Uyển Như đều chu đáo và cẩn thận như thế, cũng chẳng phải là chuyện vô lý gì. Thái độ tới mức cực đoan của bọn tôi như vậy, đều bắt nguồn từ sự ám ảnh mà Cố Ly từng để lại cho chúng tôi hồi còn học cấp ba.
Hồi ấy có một dạo, làn da “bánh mật” của tên quỷ tha ma bắt gì đó mà Cố Ly từng theo đuổi như bị ma xui quỷ khiến đã biến thành “người đẹp chocolate”, vì thế nó đã bao chúng tôi mấy vé và toàn bộ tiền khách sạn trong kỳ nghỉ hè, rồi dùng đủ cách dụ dỗ để tập hợp chúng tôi rồi kéo nhau đến bãi biển Tam Á, sau đó bốn chúng tôi đã nằm thườn thượt trên bãi biển phơi nắng suốt bảy ngày trông chẳng khác nào mấy thi thể đang bất động, nếu nói như Cố Ly, đây là truyền thuyết tuyệt đẹp về “hai mỹ nhân ngư (nó và Nam Tương) và một cô gái mò trai (tôi) cùng một con hải sâm lớn (Đường Uyển Như)” – còn việc người khác có hiểu như thế hay không, thì đó là một câu đố, dạo ấy cũng còn vì chúng tôi nằm phơi nắng quá lâu, nên đã khiến một phụ nữ qua đường sợ chết khiếp suýt chút nữa đã hét lên báo cảnh sát. Bận đó, chúng tôi còn trẻ người non dạ đâu hiểu gì về thứ kem chống nắng này, còn Cố Ly vô nhân tính ấy lại chỉ nhớ bôi cho mình, mà quên béng chuyện nhắc ba chúng tôi. Kết cục là sau khi tôi và Nam Tương về trường, chưa đầy nửa ngày sau đã đẻ ra thêm hai cái biệt hiệu mới, tuy hai biệt hiệu đó đều nhằm vào làn da đen nhẻm của chúng tôi, nhưng Nam Tương nhờ có khuôn mặt đẹp nên ít nhiều biệt hiệu còn dễ nghe hơn chút, là “Công chúa Hắc Tuyết”, còn tôi vì sắc vóc khiêm tốn so với Nam Tương nên mang biệt hiệu: “Gà ác.”
Vô sỉ nhất là Cố Ly, nhờ sự hỗ trợ của các loại kem chống nắng mà nó đã tầng tầng lớp lớp bôi bôi trát trát lên mặt, nên da nó chỉ hơi xạm một chút, vừa đạt tới màu chocolate mà nó mong muốn, lại vừa khỏe khoắn mà hài hòa. Khi thấy tôi và Nam Tương đen thui vì phơi nắng, nó khom lưng xuống mà cười nắc nẻ suốt ba phút, cười đến mức cúc áo ở ngực cũng bật tung ra. Cười thỏa thuê rồi, nó bắt đầu chống nạnh, rồi giở nét mặt ra chiều thông cảm mà lại ấm ức nói với bọn tôi: “Thượng đế thật bất công, người muốn phơi nắng cho đen nhất là tớ, kết quả da lại chỉ hơi đổi màu chút xíu, còn hai cậu lại kiếm được khoản hời lớn, các cậu xem xem, hai cậu đen đến mức chẳng khác gì hai quả cà tím già.”
May mà tôi tuổi trẻ khỏe mạnh, nếu không khốn kiếp, chắc tôi tắt thở từ lâu rồi.
Còn Đường Uyển Như, nó là đứa thảm nhất. Vì mỗi khi có mấy chàng trai cơ bắp cuồn cuộn trẻ trung mặc quần bơi bó sát người bước qua chỗ bọn tôi đang nằm, ngay tức khắc nó bay vèo ra khỏi khu vực có dù che nắng, đuổi theo những cơ thể đang tỏa mùi hoóc môn nam tính để rít lấy rít để, mắt trợn trắng, lưỡi thè ra, đầu lắc lư điên đảo, còn miệng thì nhỏ dãi ròng ròng, như để đang đánh dấu lãnh thổ – nó chẳng khác gì việc rắc vụn bánh mì dọc đường vào rừng sâu để tìm được lối về lúc trở ra vậy. Nhưng nói thực, nhìn kỹ lại trông như con chó Labrador sung sức đang thỏa sức chạy tung tăng trên bãi cát thì đúng hơn.
Vì Đường Uyển Như chạy nhảy tự do, giải phóng dục tính trên bãi biển Tam Á nên sau khi về đến Thượng Hải thì da nứt thịt rạn, cơ thể đen nhẻm giống như trong truyện Truyền kỳ tân Bạch nương tử. Nó nằm trên giường tứ chi giãy đạp điên cuồng, miệng há hốc đỏ ngầu rồi không ngừng kêu la, tiếng gào thét vừa khan khản lại vừa lảnh lót, tần suất cũng khá ổn định, vả lại cũng bởi răng của nó cực to và cực ngay ngắn dày dặn, khiến trong khoảnh khắc thảng thốt tôi có cảm giác như nó là một con… ngựa đang lâm bồn.
Tôi đang tự hào về ví dụ cực kỳ chuẩn xác mà mình đưa ra, Cố Ly đã ngay tức khắc đánh bại tôi bằng một câu nói bâng quơ. Nó chỉ vào mảng da bong tróc trắng hếu trước ngực Đường Uyển Như, rồi nói: “Trông giống hai hạt ‘đường’ ‘sữa’ ‘ư ư’ vừa lột ra mà chưa xé bỏ áo chưa kìa?”
Nam Tương ngồi đối diện tỏ vẻ nghiêm trang rồi đưa ngón tay cái lên.
Tôi nhìn vẻ mặt đắc ý rạng rỡ ánh hào quang của Cố Ly, cảm thấy trên đầu nó như đang bao trùm vầng Phật quang, tôi chợt nghĩ, hồi Newton bị quả táo rơi trúng đầu, chắc cũng giống thế này?
Tôi tỉnh lại khỏi một mớ ký ức, đám người trẻ trung trước mặt, nét mặt ai cũng tươi tỉnh, quý phái sang trọng, tôi đột nhiên cảm thấy thoáng mơ hồ. Bầu không khí bất giác bị ánh mặt trời chói chang chiếu rọi làm cho khẽ lay động, giờ là năm 2009, hay là năm 2010? Tôi đột nhiên không rõ nữa.
Từ sau khi tốt nghiệp đại học, tôi luôn cảm thấy thời gian vận động hỗn loạn và trôi qua dị thường. Còn hồi đang học, có vô số khoảnh khắc để chúng tôi trải nghiệm thời gian lặng lẽ trôi qua, ngày nào cũng có thời khóa biểu nhắc nhở, ngày nào cũng được phân chia thành từng khúc đoạn bốn mươi lắm phút, rồi tổng hợp thành các học kỳ khác nhau, năm học khác nhau, thế là chúng tôi học lớp khác nhau, có nghỉ đông, nghỉ hè, nghỉ tết mừng thành lập trường vân vân và vân vân, để nhắc chúng tôi rằng thời gian đang không ngừng trôi qua.
Sau khi tốt nghiệp, hình như từng ngày từng ngày vẫn không khác gì so với quá khứ, nhưng dường như lại chẳng có ngày nào giống trước đây.
Sự hỗn loạn của thời gian tạo thành màn bóng sáng mong manh giữa một bức ảnh không hề có tiêu điểm, dán lên trên mặt mỗi người.
Khép mắt lại, tôi nhớ lại mình của mấy tháng trước.
Khi ấy, ngoài đi học ra, ngày nào tôi cũng nhốt mình trong phòng. Tôi thấy vô cùng chán nản và cực kỳ thất vọng khi ngắm nhìn những bông tuyết đang bay ngoài cửa sổ, trong phòng điều hòa phả hơi nóng hừng hực khiến mặt kính cửa sổ như bị che phủ một màn sương mờ, trong khoảnh khắc từng cánh tuyết đập vào mặt kình rồi nhanh chóng tan thành nước, sau đó hỗn loạn lăn xuống men theo cửa sổ.
Khi đó, bên ngoài là màn tuyết xơ xác tiêu điều, khiến người ta nhìn vào cảm thấy vô cùng tuyệt vọng. Giống như thế giới này đã bị thủng một lỗ lớn, tuyết từ trong lỗ thủng ấy phun ra cuồn cuộn, trong chớp mắt thổi ngập cả thế giới, từng cơn gió vừa buốt lạnh vừa mạnh mẽ thổi thốc vào ngực người ta, chẳng tốn chút sức lực nào cũng đã thổi cho trái tim vừa nặng trịch vừa ấm áp dễ chịu vỡ vụn.
Ngày qua ngày, tôi thẫn thờ tựa mình trước khung cửa sổ, khi nước mắt lưng tròng, khi mặt mày ráo hoảnh, nhưng trong đáy mắt lúc nào cũng nhói lên như có mạt sắt rắc vào, đôi khi tôi còn cảm thấy thời gian dừng lại ở cái ngày mà Giản Khê trở về, có điều hôm đó anh ấy trở về không phải là để nối lại duyên xưa với tôi. Anh ấy trở về là để thu dọn đồ đạc, để hoàn toàn rời xa tôi.
Khi đó, cứ đêm nào không ngủ được, khoảnh khắc cầm chắc ly nước nóng trong tay ngơ ngẩn ngồi cuộn mình trong chăn trước cửa chớp ban công, tôi luôn mơ hồ cảm thấy Giản Khê vẫn đang thu dọn đồ đạc trong phòng ngủ, là những cuốn truyện ký nhân vật lịch sử châu Âu vừa khô khan vừa dày cộp mà anh ấy thích đọc, là những chiếc đĩa CD mà anh ấy mua về để chuẩn bị nghe cùng tôi, là những chiếc áo len lông cừu có kiểu dáng hầu như mười cái như một nhưng màu sắc lại cực kỳ đa dạng, là đồ lót màu trắng và chiếc quần bò. Anh ấy thong thả ung dung nhưng lại cực kỳ kiên định sắp xếp hành lý để rời khỏi nơi này, thi thoảng anh ấy dừng lại uống nước, sau đó lại tiếp tục. Tôi tựa người bên cửa sổ hỏi anh có cần giúp gì không, động tác của anh vẫn không dừng lại, lưng quay về phía tôi mà cất tiếng: “Không sao, có ít đồ mà.” Giọng nhỏ nhẹ và ấm áp mang hương vị như mùi cơ thể anh, giống như một nắm cát đã được rang nóng. Thậm chí đến phút cuối cùng trước lúc ra đi, anh ấy còn bình thản ôm tôi một lát. Cánh tay ấy vẫn theo thói quen vòng thành hình vòng cung hơi chếch lên, để bàn tay rộng dài của anh ấy vừa đủ ôm lấy xương bướm của tôi. Lồng ngực của anh ấy vẫn nóng bỏng, ngập tràn mùi vị mà tôi quen thuộc.
Khi đó, đường Nam Kinh Tây treo đầy đèn lồng đỏ. Từng chiếc từng chiếc đỏ lựng lắc lư giữa gió tuyết hòa với những gương mặt đỏ gay căng cứng của người đi đường. Năm mới đến, xem chừng các mặt hàng đều đầy đủ, trái ngược với cảnh tượng này là vẻ bực dọc u ám trên mặt từng người vẫn bận bịu trước Tết, họ mang vẻ mặt còn chưa tỉnh ngủ, vội vã cầm dù bước đi trong gió tuyết mịt mùng, lao về phía khoản tiền thưởng cuối năm ở chỗ không xa trước mặt.
Khi đó, cả thế giới đều chìm đắm trong bầu không khí lạnh lẽo trăm năm mới thấy. Tin tức của Bắc Kinh và Thượng Hải, cứ cách mấy ngày một lần, lại dự báo không khí lạnh mới đổ bộ. Trên bàn hội nghị Copenhagen, các nhà khoa học khí tượng với nét mặt buồn khổ, sôi nổi phát biểu tham luận, nói “hiệu ứng nhà kính” biến mất, trái đ