- Huynh thực sự không muốn tôi đi sao? – Nàng chuyển sang vui vẻ, cố đè nén nỗi bi ai trong lòng. – Tôi không thể không đi, còn huynh, muốn tôi không đi, lại rất hi vọng tôi sẽ đi, đúng không?
Lời nàng như một ngọn roi quất lên người Phong Dương Hề, khiến bàn tay hắn thoáng run, rượu tràn ra ngoài. Hắn uống cạn ly rượu, đứng lên lạnh lùng nói:
- Nếu nàng thực sự nghĩ thế thì ta không ngăn nàng nữa.
- Ha ha… - Vĩnh Dạ bật cười, cười ra nước mắt.
Phong Dương Hề siết chặt tay, trán nổi gân xanh, hắn có thể nghe thấy tiếng mạch máu đang chảy rần rật trong huyết quản. Hắn cố gắng kiềm chế bản thân, chậm rãi nói:
- Nàng có lý do không thể không đi, ta cũng có lý do muốn nàng đi, nhưng tuyệt đối không như nàng nghĩ! – Nói xong hắn không nhìn Vĩnh Dạ nữa, rảo bước bỏ đi.
Hắn muốn quay đầu lại bảo nàng phải cẩn thận, nhưng Vĩnh Dạ vẫn đang cười, tiếng cười ấy đâm sâu vào tim hắn.
An gia không chỉ là gia đình giàu có nhất Tề Quốc, mà còn là thiên hạ đệ nhất thương gia.
Có người nói, vào Hoàng cung mới biết thế nào gọi là sâu như biển, vào An gia rồi mới biết thế nào gọi là đại phú quý.
Từng có người nói đứng ở kiến trúc hùng vĩ nhất Hoàng cung Tề quốc – Thiên Cơ Các để cúi đầu ngắm nhìn Thánh Kinh, miếu đường cao xa, trang nghiêm, sừng sững.
Cũng có người nói làm thuê ba năm ở phủ đệ của An gia vẫn chưa biết được toàn bộ diện mạo của phủ đệ này.
Thu Thuỷ sơn trang của Trần Thu Thuỷ được xây bên bờ hồ Lạc Nhật phong cảnh như tranh, người Thánh Kinh lại nói hồ Ánh Nguyệt trong đại trạch của An gia còn đẹp hơn hồ Lạc Nhật tới mười lần.
Sau khi An gia quyên tiền cho Tề quốc đóng chiến thuyền, Hoàng thượng bèn hạ lệnh thưởng biệt uyển Hoàng gia, Ánh Nguyệt hồ nằm gần An gia cho họ. An gia bèn đập thông tường nhà, khu vườn đẹp nhất của Hoàng Gia từ đó trở thành một phần của An gia.
Bước vào cổng phủ cao lớn, đi khoảng một tầm tên bắn, Vĩnh Dạ phát hiện tường viện vốn được phân thành hai tầng trong ngoài, tầng ngoài đều có đặt các lầu canh, có hộ viện đi tuần. Giữa tầng trong và tầng ngoài là khu sinh sống của các nô bộc trong nhà.
Vào tới nội viện, trước mắt là một màu xanh ngắt. Từng nếp nhà trập trùng như cung điện ẩn hiện ở giữa, trong rừng có noãn thạch, đường mòn hoặc là những hành lang dài nối tiếp. Dọc đường không nhìn thấy hộ viện, nhưng vừa lên tiếng là lập tức có người chạy tới thỉnh an. Các tiểu tư, thị nữ đều nhã nhặn lễ độ, đi đường nhìn thẳng. Vĩnh Dạ thầm kinh ngạc, An gia trị gia nghiêm ngặt như đại nội Hoàng cung.
Như trước đây đã thoả thuận, An Bá Bình mời Vĩnh Dạ tới vẽ lại bức “Quan m Đồ” của Triệu Tử Cố, một hoạ sư bậc thầy đã qua đời, mà bức tượng Quan m do chính tay Triệu Tử Cố điêu khắc lại nằm trong Phật đường của An phủ. Thế nên Vĩnh Dạ để tìm kiếm hoạ ý, bèn vào An phủ thăm quan.
Đi suốt hai khắc đồng hồ mới tới được một toà viện tử. Nói là Phật đường, nhưng Vĩnh Dạ cảm thấy nó giống một toà tự viện. Trong không khí vương vấn làn khói xanh của hương trầm, lại còn nhìn thấy cả hoà thượng.
An Bá Bình nói khẽ:
- Gia mẫu lễ Phật, xin cho tôi vào thông báo một tiếng.
Vĩnh Dạ tặc lưỡi, thích lễ Phật thì xây trong nhà một toà miếu, ngân lượng của An gia thật là nhiều. Nàng đứng ngoài Phật đường, bốn bề an tĩnh, ngay đến tiếng ve kêu cũng không nghe thấy. Tháng Tám trời nóng bức mà không có tiếng ve? Nàng ngạc nhiên nhìn ngó xung quanh, thấy trên các cây ở quanh Phật đường có treo mấy cái túi thơm. Chẳng lẽ dùng để đuổi ve sao? An gia mời ở đâu được một cao thủ chế thuốc như thế nhỉ?
- Lý công tử, mời! – An Bá Bình ra khỏi Phật đường, cười nói.
Vĩnh Dạ bước vào Phật đường, ngửi thấy một mùi thơm kì lạ, hương thơm rất nồng bao phủ toàn bộ Phật đường. Định thần lại nhìn, thấy một bức tượng Phật bằng gỗ cao tới một trượng, màu nâu vàng, không phải là trầm hương thì là gì? Một miếng trầm hương đã đổi được một miếng vàng có thể tích tương đương, trầm hương thường nhỏ, dùng làm hương liệu, tượng Phật này cao tới một trượng, hơn nữa với tay nghề điêu khắc tinh xảo của Triệu đại sư thì không biết đáng giá bao nhiêu tiền? Nàng chớp mắt, nhớ lại những ngày cùng Nguyệt Phách đếm từng xu để đi mua gạo. Sớm biết thế đến An gia Phật đường chặt một tay Phật mang bán cũng đủ để họ ăn cả đời. Cho dù không bán không cầm, mang đi hun thịt heo cũng được, nói không chừng con heo đó không chỉ đổi được có mấy lạng gạo và một miếng thịt. Nếu khi đó không rầu rĩ vì tiền ăn, nàng đã không phải mang cầm miếng ấn thạch điền hoàng, không vì muốn báo thù Đại Xương Hiệu trả giá thấp mà làm tranh giả, như thế thì những việc sau này liệu có xảy ra không? Tường Vi liệu có xuất hiện không? Nàng và Nguyệt Phách liệu có thể tiếp tục ung dung ngồi uống cháo ở sân, nhìn trăng ngắm sao không?
- Lý công tử, đây là gia mẫu.
Vĩnh Dạ sực tỉnh lại từ những tưởng tượng ban nãy, thấy bên cạnh bức tượng là một lão phu nhân. Mái tóc bạc trắng, áo vải màu nâu, tay cầm một tràng hạt bằng gỗ trầm, trông thần thái có vẻ bình thản, như thể con người đã hoà vào không trung cùng với hương trầm, ngũ quan đoan chính, khi còn trẻ chắc chắc là một mỹ nhân.
Bên cạnh lão phu nhân có một thị nữ, sắc mặt lạnh lùng, liếc Vĩnh Dạ một cái, ánh mắt như thể đang nhìn một con kiến vừa bị giẫm dưới chân mình.
Vĩnh Dạ vội vàng hành lễ, gặp loại nữ nhân như thế này, nàng thường không có cảm tình.
Lão phu nhân mở mắt ra, từ tốn nói:
- Đã là người vẽ Quan m thì trong lòng tất cũng có Phật, chắc là người từ bi, đi đi.
Vĩnh Dạ nghe lời, với nhãn lực của nàng, không biết vì sao cứ cảm thấy lão phu nhân này rất quen. Không nhịn được bèn liếc nhìn vài cái, giật mình bởi ánh mắt thăm dò của lão phu nhân. Nàng vội vàng ngoan ngoãn nghiêm túc ngắm nghía bức tượng Quan m trong Phật đường. Sau một tuần hương, nàng nghe thấy lão phu nhân chậm rãi mở miệng:
- Lý công tử đã ngắm tượng Quan m rất lâu, có cảm nhận gì?
- Hồi lão phu nhân, bức Quan m liên đài này đặt chân lên đài sen, bảo tượng đoan trang, sống động như thật, hiếm có nhất là các đường nét đều tròn trịa, thông suốt, thần thái từ bi. Thủ pháp điêu khắc vô cùng tinh diệu, y phục bay bổng như thật, gỗ trầm hương để làm cũng là loại khó tìm, Triệu đại gia đã không để lãng phí nó. Hơn nữa gỗ trầm rất khó điêu khắc, cũng chỉ có Triệu đại gia là thánh thủ nên mới có tài nghệ phi phàm, khiến tại hạ mở rộng tầm mắt. – Vĩnh Dạ không biết lão phu nhân muốn kiểm tra mình hay chỉ là buột miệng hỏi vậy, nghiêm túc trả lời.
Lão phu nhân lạnh nhạt nói:
- Lý công tử đúng là có học vấn, nhãn lực của Bá Bình khá lắm, đi đi.
Vĩnh Dạ cung kính hành lễ, lui ra khỏi Phật đường.
Khi hành lễ cáo từ bà, cảm giác quen thuộc ấy lại xuất hiện. Vĩnh Dạ nghĩ ngợi trong lòng rất lâu, vẫn không nghĩ ra là gặp vị lão phu nhân này ở nơi nào.
Ra khỏi Phật đường, bước chân lên đường mòn giữa rừng, An Bá Bình mới nói nhỏ:
- Công… công tử đúng là chân tài thực học, Bá Bình sợ toát cả mồ hôi.
Vĩnh Dạ tĩnh tâm để ý xung quanh, thấy không có người mới nói:
- Hoá ra lão phu nhân muốn kiểm tra tôi. Thứ cho tại hạ mạo muội, lão phu nhân có phải thân sinh mẫu thân của đại công tử không?
An Bá Bình lắc đầu:
- Mẫu thân tôi là tiểu thiếp của phụ thân, đã qua đời từ lâu. Bà là chính thất của phụ thân, là mẹ của tam đệ. Phụ thân qua đời sớm, khi đó Bá Bình đang ở ngoài lo liệu chuyện làm ăn, không ở bên cạnh người được. Đầu năm lão thái gia cũng qua đời, Bá Bình mới gánh vác việc chính của An gia.
- Ồ, lão phu nhân là người ở đâu?
- Quê ngoại của mẫu thân hình như là một trấn tên là Phúc Bảo, ở trong núi. Tề quốc nhiều núi, là ngọn núi nào thì Bá Bình cũng không rõ.
Vĩnh Dạ nhìn viện tử của An gia, cảm thấy nơi này đẹp thì đẹp thật, nhưng yên tĩnh tới đáng sợ, hệt như một nấm mồ. Sống trong một đại gia tộc như thế này có lẽ cũng chẳng dễ dàng.
Tối hôm đó nàng được sắp xếp vào một khách phòng trong nội viện. An Bá Bình nói với mọi người rằng nàng cần phải quan sát tượng Phật nhiều ngày mới có thể làm tranh được. Bên ngoài khách phòng Vĩnh Dạ dặn không cần thêm quá nhiều nhân thủ, cứ như thường ngày là được.
Nàng khổ sở suy nghĩ, rốt cuộc là đã gặp lão phu nhân đó ở đâu? Khách phòng rộng rãi, ngoài là sảnh, trong là phòng ngủ. Bên ngoài làm thư phòng, để tiện cho nàng vẽ tranh nên nguyên vật liệu đã đầy đủ. Vĩnh Dạ tiện tay cầm bút vẽ gương mặt của lão phu nhân, nhìn đi nhìn lại, sửa đi sửa lại, gương mặt bà đã biến thành một gương mặt khác, hai người giống nhau tới bảy phần.
Bàn tay cầm bút của Vĩnh Dạ run rẩy không thể kiềm chế. Lát sau nàng tiện tay vẽ thêm một bức tượng Quan m, trên mặt dần dần nở nụ cười. Nàng hít sâu một hơi, đặt hai bức tranh vào ngọ nến đốt đi. Lúc này nàng nghe thấy ngoài cửa có động tĩnh. Vĩnh Dạ thổi tắt nến, thân hình búng nhẹ, bay vọt ra cửa sổ.
Trên nóc nhà cách đó không xa có một bóng đen lướt qua.
Nàng sợ phải sống một cách yên ổn ở An gia mà không có động tĩnh gì. Nhìn thấy bóng đen đó, Vĩnh Dạ đâu chịu bỏ qua, thi triển khinh công tới mức tối đa, cách bóng đen càng lúc càng gần.
Hình như biết là nàng đang đuổi theo, bóng đen từ nóc nhà nhảy xuống một cái sân.
Vĩnh Dạ không hề do dự, đuổi theo.
Trước mắt bỗng sáng bừng lên, một mặt hồ màu bạc xuất hiện trước mắt, hắc y nhân đã đứng giữa con thuyền nhỏ.
Hắn nhìn nàng, chậm rãi lên tiếng:
- Không ai ngờ được rằng khinh công của ngươi còn giỏi hơn cả Thanh y nhân. Giấu giỏi lắm.
Vĩnh Dạ nhún vai, mỉm cười:
- Mặc Ngọc xông tử, ồ, An gia tam công tử, ngưỡng mộ, ngưỡng mộ!
Mặc Ngọc không mặc y phục dạ hành chật chội, chiếc áo dài màu lục sẫm, lưng đeo thắt lưng ngọc, khí độ hoàn toàn khác lúc ở Mẫu Đơn Viện, đường hoàng là một phong lưu quý công tử. Chỉ có đôi mắt ấy là vẫn chứa đầy sự đố kị, hận thù và bi phẫn, hằn học nhìn nàng.
- Ngươi biết rõ rằng ta dụ ngươi ra đây, vì sao vẫn còn mắc bẫy? Ở đây, ngươi tưởng Phong Dương Hề còn có thể cứu ngươi lần nữa sao?
- Khinh công của ta rất ổn, độ chuẩn của ám khí cũng không tệ, Mặc Ngọc công tử chỉ cách ta hơn một trượng, ngươi không sợ chết sao? – Vĩnh Dạ cười cười. – Hơn nữa, cao thủ của An gia không ít, Mặc Ngọc công tử hiển nhiên là đã nói chuyện với họ rồi, không có ai đến làm phiền nên dọc đường m