ần nhà cũng không có mạng nhện, bồ hóng… Tuy trong phòng chỉ kê một chiếc giường gỗ đàn trắng, nhưng ga trải còn mới. Bà già coi nhà xách một chiếc lò sưởi đến, một lúc sau căn phòng liền trở nên ấm áp.
Đến bây giờ Tĩnh Uyển mới thờ phào nhẹ nhõm như được giải thoát, chỉ cảm thấy bụng đau đớn khó chịu, cả cơ thể chầm chậm ngồi xuống. Dưới ánh đèn, Trình Tín Chi thấy mặt cô xanh xao không còn giọt máu, liền nói: “Có phải Doãn tiểu thư bị bệnh không, có cần mời bác sĩ đến khám không?”.
Tĩnh Uyển chầm chậm lắc đầu: “Tôi chỉ mệt thôi”.
Trình Tín Chi nói: “Ở đây hơi đơn sơ, nhưng rất an toàn, Doãn tiểu thư nghỉ đi, nếu ngày mai tôi không đến được, cũng nhất định sẽ phái người đến. Tôi nói với họ, cô họ Lâm, là em họ phía nhà ngoại của tôi”.
Dưới ánh đèn, đôi mắt cô vẫn long lanh như nước hồ thu, khẽ nói: “Cảm ơn anh, Trình tiên sinh”.
Trình Tín Chi hơi áy náy, nói: “Tôi không phải là bậc quân tử nhiệt tình như đạo xưa”.
Khóe miệng Tĩnh Uyển hơi nhếch lên, lộ ra một nụ cười thê lương: “Anh chịu nói thật ra như thế, đã là quân tử rồi”. Cô quay mặt đi, chỉ nghe tiếng gió Bấc ù ù bên ngoài, như muốn thổi đến mức tận đáy tim người ta sinh ra một sự lạnh lẽo vô vọng mới thôi.
Sau khi Trình Tín Chi đi, Trình Doãn Chi ngồi nghe kịch một mình, càng thấy nhàm chán hơn, trên sân khấu một đoạn kịch Tây Bỉ vừa hát xong, rất nhiều người đứng dậy vỗ tay khen hay. Trình Doãn Chi quay mặt lại, đứng lúc nhìn thấy một cảnh vệ vội vã đi đến, nói một hồi với Thư Đông Tự, Thư Đông Tự lập tức cúi người xuống, nói nhỏ hai câu vài tai Mộ Dung Phong. Chỉ thấy sắc mặt Mộ Dung Phong hơi thay đổi, lập tức đứng dậy quay người đi ra ngoài.
Anh vừa đi, các cảnh vệ cũng tiền hô hậu ủng đi theo sau, khách khứa cũng nhốn nhào liếc nhìn. Hà Tự An đi lên thì thầm vài câu, Mộ Dung Phong không hề dừng bước, vẫn là Thư Đông Tự vội nói một câu gì đó với Hà Tự An, xong liền chạy lên theo sát Mộ Dung Phong ra ngoài. Hà Tự An cười quay đầu lại nói: “Mọi người đừng lo lắng, chỉ là nước bạn phái một đại biểu quan trọng đến chúc mừng, tàu hỏa giờ này mới đến, cậu Sáu đích thân đi đón, mời mọi người tiếp tục xem kịch”.
Khách khứa liền nhốn nháo bàn luận, có người nói là đặc sứ nước Nga đến, có người nói là đặc sứ nước Nhật, vì trên sân khấu đang hát đến đoạn quan trọng, không lâu sau sự chú ý của tất cả mọi người đều dồn về vở kịch.
Mộ Dung Phong đi thẳng qua phòng khách, nói với Thư Đông Tự: “Đem đến tôi xem”. Thư Đông Tự đưa lên một tờ giấy nhỏ, anh cầm lấy, không kìm được nắm chặt lấy nó: “Nhất định là cô ấy, con dấu này là thật, nhất định là cô ấy nhân lúc tôi không phòng bị trộm con dấu, cô ấy từng giả chữ của tôi, ngoài cô ấy ra không có ai khác”.
Thư Đông Tự nói: “Lục tư lệnh nói tuy là một phụ nữ trẻ tuổi nhưng hình dáng không giống Doãn tiểu thư lắm”.
Mộ Dung Phong nói dứt khoát: “Bảo họ lái xe ra, tôi đến đồn trị an”. Thư Đông Tự không nói gì, Mộ Dung Phong tức giận nói: “Điếc à? Mau đi lấy xe!”.
Thư Đông Tự nói: “Hay bảo người đi xem trước, nếu là thật thì sắp xếp xe đi đón cũng không muộn”.
Mộ Dung Phong chùng khóe miệng xuống, quay phắt người đi ra ngoài, Thư Đông Tự cuống cuồng đuổi theo nói: “Đã ba giờ sáng rồi, cậu Sáu, muộn như vậy, hôm nay là đại hỷ của cậu, là đêm động phòng hoa chúc…”.
Mộ Dung Phong quay đầu, giận dữ nói: “Chết tiệt, câm miệng lại cho tôi”.
Thư Đông Tự nói thấy anh nổi giận lôi đình, đành lập tức vừa sai người đi lấy xe vừa sai người đi báo với Hà Tự An. Sau khi Hà Tự An biết chỉ “ôi” một tiếng, gọi hầu nữ cẩn thận dặn dò một lúc, bảo cô ra phía sau nói với Trình Cẩn Chi.
Trình Cẩn Chi nghe thấy phía trước đã tan tiệc, khách đã về, tiếng ồn ào dần dần lặng xuống, mà đôi nến trên bàn đã cháy hơn một nửa, đang lúc hơi nghi ngờ thì một hầu nữ đi vào, tươi cười nói: “Thư ký Hà ở phía trước bảo tôi đến nói với phu nhân, cậu Sáu có việc quân cần xử lý gấp cho nên sẽ đến muộn một chút”.
Cẩn Chi chỉ ‘ừ” một tiếng, vì thấy rượu thành hôn trên bàn, đưa tay sờ thử, bình rượu đã lạnh, liền nói: “Đem chỗ rượu này hâm nóng lại đi”. Liền có người vâng lời làm theo, cô lại ngồi xuống, nhưng thấy nến đỏ rực rỡ, ánh nến lay động, trên rèm cửa màu đỏ hoa hồng, in lên hình bóng mình, cô độc lẻ loi.
Vì có đèn đường, phản chiếu hình bóng trên cửa kính xe, tâm trạng Mộ Dung Phong rối như tơ vò, chỉ thất thần nhìn ra ngoài cửa sổ. Thừa Châu bỏ lệnh cấm đêm, nhưng nửa đêm gà gáy thế này, trên đường không hề có người đi lại, chỉ có xe của họ vù vù lao đi. Không lâu sau đã đến đồn trị an, Lục Thứ Vân đã đến từ lâu, Mộ Dung Phong vừa thấy anh ta liền hỏi: “Người đâu?”
Lục Thứ Vân nói: “Ở trong phòng làm việc bên này”. Anh ta dẫn Mộ Dung Phong đi ngang qua một con đường ngắn, đẩy cửa ra, Mộ Dung Phong thấy một người phụ nữ ngồi cúi mặt vào phía trong, mặc một bộ sườn xám màu vàng mơ, hai bờ vai gầy gò mỏng manh, tim anh bỗng thắt lại, buột miệng gọi một tiếng: “Tĩnh Uyển”.
Người phụ nữa đó nghe thấy quay đầu lại, nhưng là một khuôn mặt hoàn toàn xa lạ, trái tim anh chùng hẳn xuống, thất vọng đến cực điểm, gió Bắc ù ù, sự lạnh lẽo đó thấm vào tận nơi sâu nhất trong đáy tim.