Đêm đã khuya lắm rồi. Có lẽ phải đến hơn mười hai giờ. Huyền cũng không biết nữa vì chiếc đồng hồ treo tường lại đặt sau tấm ri-đô. Những lúc như thế này, chị sợ nhất là phải nằm đếm thời gian trôi đi một cách chậm chạp. Bên cạnh chị, bé Thảo vẫn ngủ say sưa. Tiếng ngáy êm êm của con như cứa sâu thêm vào lòng chị sự đơn độc, trống trải, cô quạnh. Có một cái gì đó đang muốn cựa quậy, đang muốn phá phách trong lòng chị nhưng bị chị giữ chặt lại, kìm nén khiến cho tâm trạng của chị cứ khắc khoải không yên. Mỗi đêm bây giờ, đối với chị cứ dài như vô tận. Không hiểu sao, cứ đặt lưng xuống giường là chị nghĩ. Nghĩ nhiều lắm. Nghĩ miên man. Nghĩ toàn những điều vớ vẩn chẳng đâu vào đâu. Nghĩ đến quay cuồng, đến mệt mỏi mà không thể nào bứt những suy nghĩ ấy ra khỏi đầu được. Nghĩ đến mụ mị. Cứ như bị ma ám, cứ như người ốm dở, cứ như kẻ mất hồn. Suốt nhiều ngày nay, chị đã phải vùi đầu vào những giấc ngủ ngày bơ phờ để lấy lại sức. Có lẽ, do ánh sáng nhờ nhợ của quả bóng đèn ngủ màu xanh làm cho chị trằn trọc không thể ngủ được. Cái thứ ánh sáng ma quái ấy lạnh lẽo quá, nó gợi lên trong chị sự cô đơn, trống trải khiến chị sợ. Chị thay quả bóng đèn ngủ màu xanh bằng một quả bóng màu đỏ. Nhưng chính cái màu đỏ rạo rực ấy lại càng làm cho chị khó ngủ hơn. Cái thứ ánh sáng ấy đã gợi lên trong chị một sự khao khát rất rõ ràng, cụ thể. Lâu nay, chị vẫn luôn che dấu sự thổn thức của mình trong những bộ quần áo lao động nhàu nhĩ, bạc màu, cáu bẩn và rộng thùng thình; sau những cánh cửa luôn đóng im ỉm cả ngày lẫn đêm, kể cả khi chị có mặt ở nhà. Vậy mà bây giờ, chị không còn sức để chịu đựng những điều đó nữa, không thể bình thản và dửng dưng trước những người đàn ông. Mỗi lần như thế, Huyền lại thở dốc như vừa phải làm một công việc gì đó cực kỳ nặng nhọc. Chị thấy tức ngực, khó thở. Chị vội ngồi nhổm dậy, vùng khỏi giường, lao vào nhà tắm, dội nước ào ào lên khắp cơ thể. Một lúc sau, chị thấy chân tay mình rã rời, người mệt rũ ra như một con gà bị cúm. Chị lại phải vội vàng đổi quả bóng đèn ngủ màu đỏ bằng một quả bóng màu xanh lơ, dịu dàng hơn. Từ ngày chồng mất, hơn hai năm nay, Huyền vẫn sống lặng lẽ và đơn độc trong căn nhà nhỏ ở cuối xóm Bờ Ao, nơi chỉ có lèo tèo năm, sáu ngôi nhà nằm thưa thớt bên cạnh chiếc ao cá rộng mênh mông. Có lẽ, cuộc sống của chị đã êm ả hơn, nếu như Lâm không trúng thầu chiếc ao cá này và dựng một chiếc chòi canh nhỏ để trông ao, cách ngôi nhà của chị không bao xa. Ngày ngày, nhìn thấy thân hình vạm vỡ của anh ngụp lặn ngoài ao, trong chị lại gợn lên ý muốn được làm một người đàn bà giống như bao người đàn bà khác. Những đêm mất ngủ, Huyền đều nghe được tiếng bước chân và cả những tiếng thở dài của anh nữa, mỗi khi anh đi qua sau nhà, chỗ cửa sổ mà mẹ con chị đang nằm. Đêm nào, anh cũng đi quanh ao cá một vòng trước khi về chòi ngủ, cần mẫn và chính xác như một chiếc đồng hồ. Những lúc ấy, chị lại ngồi nhổm dậy, dỏng tai nghe ngóng và phải hít thở thật sâu cho nhịp tim bớt đập loạn lên trong lồng ngực. Nhiều lần, khi Lâm trở về chòi, Huyền đã lặng lẽ đi theo sau anh đến tận chân chòi, rồi như người đang định ăn vụng, chị thấy mình mắc lỗi, vội quay đầu, bỏ chạy thật nhanh như bị ma đuổi. Mất điện. Sao lại mất điện vào đúng lúc nửa đêm như thế này cơ chứ? Bé Thảo chợt trở mình, ú ớ nói mê, tay quờ quờ vào người chị. Huyền không sợ bóng tối, thậm chí còn muốn được ngồi một mình trong bóng tối. Nhưng bé Thảo lại sợ bóng tối và quen ngủ có đèn. Nhỡ tỉnh giấc, không nhìn thấy gì, bé sẽ khóc thét lên, sẽ không thể dỗ nó ngủ lại được, sẽ thức luôn đến sáng mất. Chị lần tìm chiếc đèn pin để ngay đầu giường và dậy đi soi tim bật lửa. Cái bật lửa chết tiệt hình như hết xăng làm chị bật rát cả tay mà không chịu lên lửa. Huyền lôi cục bông trong ruột bật lửa ra. Cục bông khô cong queo. Làm thế nào bây giờ? Mấy ngày nay chị lại quên mất cả việc mua xăng khi chai xăng con con chỉ dùng để chạy bật lửa đã hết mấy ngày rồi. Với lại, lâu nay, có bị mất điện như thế này bao giờ đâu. Không thể thắp đèn pin đến sáng, cũng không thể cứ nằm trong bóng tối mãi được. Huyền đành với tay lấy chiếc đèn dầu để trên ban thờ, cầm theo đèn pin đi xin lửa. Ngoài sân, vằng vặc ánh trăng. Trăng nhễ nhại chảy trên những tàu lá chuối ướt đẫm sương đêm. Trăng tràn trề khoảng sân, loang loáng trên khắp con đường bao quanh ao cá. Ngày trước, chị rất thích những đêm trăng như thế này, nhưng lâu lắm rồi, chị cũng không còn hứng thú để cảm nhận vẻ đẹp của những đêm trăng sáng nữa, những đêm trăng mà khi còn trẻ, bao giờ chị cũng thấy chúng lung linh, huyền ảo. Chợt Huyền đứng khựng lại trước cánh cổng sắt lạnh lùng khi mà chiếc then kêu kin kít đã được rút ra gần hết. Biết xin lửa ở đâu? Mọi nhà đã ngủ từ lâu rồi, chẳng lẽ lại gọi họ dậy? Có lẽ anh Lâm còn thức. Anh ấy cũng chỉ vừa mới đi quanh ao một lượt về thôi mà. Tự dưng, Huyền thấy chân tay mình run bắn lên, người bừng bừng như lên cơn sốt. Chân chị bước gấp gáp về phía chòi canh ao của Lâm như một kẻ mộng du. Đứng dưới chân chòi khá lâu, chị mới có thể cất được tiếng gọi khẽ, run run: - Anh Lâm còn thức không? Trong chòi vẫn tối đen như mực. Chị cất tiếng gọi khẽ một lần nữa rồi định quay về thì nghe thấy giọng của anh: - Ai đấy? - Em! Huyền đây! Em muốn xin anh ít lửa. Mất điện tối quá mà bật lửa nhà em lại bị hỏng. Chị nói lắp ba lắp bắp như một cái máy. Huyền cảm thấy tim mình đập thùm thụp như đánh trống. Sao mình lại cảm thấy lạnh run lên như thế này? Sao mãi không thấy Lâm nói gì? Có lẽ anh ngại? Anh cảm thấy bất tiện? Đêm hôm như thế này, mình ở đây một mình cũng không hay. Nghĩ vậy, chị định quay gót về nhưng lòng vẫn chùng chình với những ý nghĩ tội lỗi. Chợt giọng Lâm vang lên trên chòi: - Em lên đi! Chị khẽ rùng mình như vừa bị ai đó hú hoà sau lưng. Ánh sáng leo lét của chiếc đèn dầu nhỏ vừa được anh thắp lên làm cho chị tự tin hơn. Chiếc chòi đơn sơ, ngày nào chị cũng đi qua, ngày nào chị cũng nhìn thấy, vậy mà hôm nay, tự dưng chị thấy lạ lẫm và hồi hộp như vừa trông thấy lần đầu. Lâm ngồi nép vào một góc để nhường chỗ cho chị. Anh vừa khoác thêm lên mình một chiếc áo may ô cũ, rách tơi tả ven mấy đường chỉ may, cáu bẩn, nhàu nhĩ như một miếng rẻ rách nhưng cũng không thể làm mất đi vẻ đẹp cường tráng của người đàn ông tràn đầy sức sống từ con người của anh, nhất là trước ngọn đèn dầu tù mù, chập chờn. Huyền cầm đóm châm lửa từ chiếc đèn của Lâm sang mà tay run bắn lên, làm đổ cả ngọn đèn. Ánh sáng tắt ngấm. Chỉ còn những lằn sáng nhờ nhợ từ ngoài ao hắt vào. Chỉ còn ánh trăng rờ rỡ bên ngoài chòi. Chị quờ tay tìm bật lửa, chợt chạm vào tay anh. Hình như anh cũng đang tìm bật lửa để châm lại đèn. Hơi thở của Lâm gần lắm, ấm nóng và gấp gáp nữa làm cho Huyền thấy tức ngực, khó thở. Ý muốn có được anh khiến cơ thể chị bừng bừng như phát sốt, như bị lên cơn co giật, như bị ma làm. Chị nắm chặt tay của Lâm, kéo anh đổ ập xuống. Họ quấn chặt lấy nhau. Chỉ có tiếng gió lang thang hơn dỗi bên ngoài chòi và những tiếng thở gấp gáp của hai người. * * * Lâm, Thái, Hoà là bộ ba nổi tiếng tài tử ở trường cấp ba nơi Huyền học. Họ được các bạn nữ trong trường rất ngưỡng mộ bởi vẻ đẹp trai, học giỏi, hát rất hay, chơi ghi ta rất cừ và nhảy cực đẹp. Không buổi tổ chức lễ hội nào của trường là không có mặt của họ. Không một hoạt động tập thể nào mà họ lại không làm cho tất cả mọi người đều trở nên cuồng nhiệt. Họ học trên Huyền một lớp. Cả ba đều yêu chị. Cũng có thể vì chị hát rất hay. Cũng có thể vì Huyền là cô học trò học giỏi Văn, hay mơ mộng. Cũng có thể vì chị là hoa khôi của trường, một cô học trò đẹp rực rỡ và hồn nhiên giữa những đứa học trò quê luộm thuộm và lấm lem bùn đất. Chị cũng không biết nữa nhưng chính chị cũng không hiểu tại sao lại bị Thái chinh phục dễ dàng đến vậy, khi mà lòng kiêu ngạo của Huyền đã làm khổ sở rất nhiều gã si tình. Có lẽ, chị thích nụ cười khinh bạc của Thái. Cũng có thể, chị thích sự ngạo nghễ trong cách cư xử hàng ngày của anh. Cả ba đều trượt vỏ chuối trong lần thi đại học đầu tiên. Thái chỉ để lại cho Huyền một bức thư, rồi bỏ vào Nam biệt tăm. Lâm và Hoà ở lại làng, lao vào làm kinh tế. Vừa buồn vì chuyện của Thái, vừa giận bố mẹ khi thường xuyên bóng gió giục chị lấy chồng, Huyền đã không nộp hồ sơ thi đại học. Năm sau, Huyền dự thi nhưng bị trượt. Đó là một ngày chị không thể nào quên được khi nhận được giấy báo điểm thi vào đúng lúc cả nhà đang cuống lên chạy lũ, trận lũ lịch sử của làng Từ Đài. Nước từ thượng nguồn sông Hồng đổ về gầm rú, đục ngầu, tung bọt trắng xoá. Nước thè cái lưỡi dài ngoẵng, đen ngòm liếm lấy bãi đất ngoài đê, rồi nhảy chồm lên, liếm lấy mái nhà, liếm lấy ngọn cây, rồi nuốt chửng tất cả vào cái lòng sông đang sôi réo, đỏ ngầu trong chớp mắt. Mọi người vội vàng bồng bế, dắt díu nhau chạy lên đê tránh lũ. Họ dựng những chiếc cọc tre gầy guộc, khẳng khiu như những cánh tay dài nhẵng vì đói ăn, huơ huơ một cách tuyệt vọng lên trời, đầu hàng cơn thịnh nộ của thiên nhiên. Họ căng dây, phủ bạt, phủ áo mưa lên làm thành những chiếc lều tạm bợ, thấp lè tè, lô xô trên con đê đang phải gồng mình lên ngăn dòng nước lũ hung dữ. Suốt mấy ngày bị quản thúc trong lều, lòng Huyền như tan nát. Chị đau khổ vì hi vọng của mình bị dập tắt thì ít, mà vì cuộc sống bấp bênh của mình cùng với dân làng nơi ven sông này thì nhiều. Mãi đến khi lũ rút đi, để lại một vùng đổ nát, hoang tàn, bám đầy bùn đất, mọi người mới trở về dựng lại nhà cửa, dọn dẹp bùn đất và bắt đầu một cuộc sống mới. Huyền đổ bệnh. Chị sốt li bì mấy ngày liền. Trong lúc mê sảng, chị vẫn cảm nhận được sự lo lắng, quan tâm chăm sóc ân cần của cả Lâm và Hoà. Họ đã giúp gia đình Huyền dựng lại căn nhà khang trang như cũ. Một buổi tối, chị nhớ rất rõ là vào độ tháng Giêng. Hôm ấy, trời khá lạnh. Vừa đi làm đồng về, chưa kịp rửa chân tay, bố mẹ chị đã gọi vào bàn chuyện làm đám cưới với Hoà. Đất dưới chân Huyền như sụp xuống. Điều chị luôn lo sợ trong suốt thời gian qua thì bây giờ đã đến. Chị không muốn chọn ai giữa Lâm và Hoà. Huyền quỳ xuống giữa nhà, xin bố mẹ cho chị được thi đại học thêm một năm nữa, nếu không đỗ, chị nhất định sẽ nghe theo mà không một lời oán trách. Hôm Hoà sang xin cưới, Huyền đã chấp nhận buông xuôi tất cả. Chị đã tự hứa với lòng sẽ tận tâm, tận lực với Hoà để bù đắp phần nào những việc anh đã giúp đỡ gia đình mình. Nhưng Duy lại mang về cho chị tờ giấy báo trúng tuyển và gọi nhập học của trường cao đẳng sư phạm. Huyền đã chết lặng người đi, mãi không nói được câu nào. Duy đã quỳ xuống bên giường xin chị tha tội. Huyền chỉ biết khóc nấc lên, nức nở như một đứa trẻ con. Đáng lẽ, giấy gọi Huyền nhập học đã có thể về cùng với giấy gọi của những người trúng tuyển khác trong làng, nhưng chỉ vì Duy muốn chị vui, muốn chị bất ngờ nên khi nhìn thấy giấy gọi của chị ở bưu điện, anh đã cầm hộ luôn mà không chuyển về xã. Đúng lúc ấy, Duy nhận được điện thoại của chị gái ở thành phố Hồ Chí Minh báo tin bố anh bị tai nạn giao thông, đang cấp cứu ở bệnh viện Chợ Rẫy. Anh chỉ kịp nhắn lại về nhà mấy câu rồi vội vàng bắt xe ô tô vào ngay với bố. Mãi đến khi bố anh qua được cơn nguy hiểm, Duy mới chợt nhớ đến tờ giấy báo trúng tuyển của Huyền. Chỉ còn năm ngày nữa là đến thời gian nhập trường. Đúng lúc đấy, anh Công, bạn trai của chị gái Duy nhận được lệnh phải ra Bắc công tác ngay ngày hôm sau b