t lời nàng giằng tay hắn ra, “Ngồi yên đấy chờ đi!”
A Hành rút cây trâm ngọc chạm hình Huyền điểu trên tóc xuống, loại thủy ngọc này do thủy linh vạn năm dưới Quy khư ở Cao Tân ngưng tụ mà thành, có thể chống lửa, biến hình, trị thương, đúng là trân bảo hiếm có. Đây là sính lễ năm xưa Cao Tân quốc đưa tới nhưng nàng chưa từng mang, mãi tới lần này, Luy Tổ mới lục ra cài lên tóc nàng, những mong thân thể nàng mau khỏe lại, nào ngờ…
A Hành khẽ thở dài, quăng thủy ngọc trâm ra, lập tức cây trâm biến thành một con Huyền điểu xanh biếc như nước, cất tiếng kêu thánh thót. Được linh lực của nàng thúc động, Huyền điểu liền vỗ cánh bay về phía ngọn lửa, bay đến đâu lửa tắt đến đó, không hổ là thủy linh của vạn thủy. Huyền điểu bay lòng vòng quanh Bác Phụ sơn, mãi tới khi dập xong lửa mới ung dung đỗ xuống đỉnh núi, biến thành một tảng đá hình Huyền điểu, phong kín mắt lửa lại.
Ngọn lửa tắt ngúm trả lại một bầu trời đêm thăm thẳm, A Hành ngẩng đầu ngắm nhìn muôn ngàn vì sao lấp lánh giăng khắp nền trời, hệt như vô vàn viên bảo thạch.
Nàng ngoảnh lại nhìn Xi Vưu, mái tóc dài mượt không có trâm cài xõa tung, tuôn chảy, dưới ánh sao, càng toát lên vẻ quyến rũ mê người.
Xi Vưu uể oải tựa lưng vào tảng đá ngắm A Hành, mặt tươi hơn hớn.
A Hành đỡ hắn dậy hỏi, “Ngươi định đi đâu dưỡng thương đây?”
“Cửu Lê.” Hắn khẽ vuốt tóc nàng rồi tiện tay vấn lại, dùng Trụ Nhan hoa cài lên.
A Hành biến hẳn sắc mặt, rút phắt Trụ Nhan hoa xuống ném trả Xi Vưu, “Ta đưa ngươi đi một lần cuối cùng! Nếu ngươi còn bám lẵng nhẵng như đỉa đói thì đừng trách hai tộc Cao Tân Hiên Viên không khách khí!” Ánh mắt nàng lạnh buốt, thấp thoáng sát khí vương giả hiếm hoi.
Xi Vưu ủ rũ, đành nín lặng dựa vào A Hành, người nóng như lửa đốt, hơi thở rối loạn.
Dường như hắn và Tiêu Dao tâm ý tương thông, mới đó đã thấy Tiêu Dao lù lù xuất hiên, xẹt xuống như sao băng. A Hành nửa ôm nửa đỡ Xi Vưu ngồi lên lưng nó, “Tiêu Dao, ngươi bay chậm thôi. Xi Vưu đang bị thương, linh lực của ta không khống chế được tốc độ quá nhanh đâu.”
Tiêu Dao khẽ gục gặc đầu rồi dang cánh từ từ bay về phía Cửu Lê.
Gió đêm lành lạnh, sao sáng đầy trời, Tiêu Dao bay chầm chậm, A Hành cũng chẳng buồn để ý đến Xi Vưu nữa, chỉ chăm chú ngắm nhìn cảnh sắc xung quanh.
Sau khi rời khỏi Bác Phụ quốc, bầu trời sao sáng dần thưa thớt hẳn khiến A Hành tiếc rẻ mãi, may mà giữa biển mây vẫn còn một vầng trăng tròn vành vạch, mây đuổi trăng, trăng vờn mây, cũng là cảnh đẹp hiếm thấy.
Xi Vưu khẽ nói: “Lần đầu tiên ta tới Triêu Vân phong tìm cô rồi A Tệ đưa cả hai bỏ trốn cũng vào một đêm trăng sáng thế này, dạo đó tuy ta bị Đại ca cô đánh trọng thương, nhưng trong lòng rất hạnh phúc.”
A Hành nhắm mắt lại không ngắm trăng nữa, dùng hành động trực tiếp trả lời hắn.
Nhìn một A Hành lạnh lùng trước mặt, Xi Vưu chợt hoang mang, trời nghiêng có thể chống, đất lệch có thể đắp, nhưng cõi lòng tan nát rồi có vá víu lại được chăng? Biết dùng cái gì để vá víu đây?
Thấy Tiêu Dao đột nhiên đỗ xuống, A Hành liền mở bừng mắt nhìn quanh, “Đây không phải Cửu Lê, mày đưa chúng ta đến đâu thế?”
Tiêu Dao phớt lờ nàng, cứ thế dang cánh bay thẳng, bỏ lại Xi Vưu và A Hành giữa vùng hoang sơn.
A Hành tức tối giậm chân bình bịch, Xi Vưu ức hiếp nàng đã đành, ngay đến con chim của hắn cũng bắt nạt nàng nữa!
“Xi Vưu, Xi Vưu, tỉnh dậy đi, chúng ta lạc đường rồi.” A Hành lắc lắc Xi Vưu.
Xi Vưu sốt mê man, khó chịu cau rúm mày lại.
A Hành bắt mạch cho hắn, thấy khó mà chịu nổi đến khi tới Cửu Lê, phải sắc ít thuốc trị thương ngay đã. Nàng nhìn quanh nhìn quất, thấy hai bên đường núi non trùng điệp, cây cối xanh rì, lại thêm một khe suối nhỏ uốn mình, chảy xuyên qua hẻm núi.
A Hành liền cõng hắn men theo khe suối mà đi, vừa đi vừa tìm hái thảo dược.
Tùy theo hẻm núi khi rộng khi hẹp, khe suối cũng có khúc chảy xiết, có quãng chảy chậm, A Hành cõng theo Xi Vưu, hành động vô cùng khó khăn, lại thêm đá suối trơn như bôi mỡ, hai người cứ chệnh choạng mà đi, ướt sũng cả quần lẫn giày, may mà hái được không ít thảo dược.
Đi mãi đến hồ nước, khe suối cũng đổ vào trong hồ này, bên hồ lô nhô mấy tảng đá, A Hành bèn chọn một phiến đá bằng phẳng, đặt Xi Vưu lên.
Nàng nghiền nát thảo dược, múc nước hồ chiêu cho Xi Vưu uống rồi cởi bỏ y phục của hắn, dùng mười mấy ngọn lá thông lớn có nhỏ có, ngưng tụ linh lực châm vào huyệt đạo hắn nhằm khơi thông linh khí, làm dịu cơn đau. Chẳng có linh đan diệu dược gì, A Hành đành đốt ngải cứu hơ vào đỉnh đầu và gan bàn chân hắn, dốc hết linh lực bức nhiệt khí trong cơ thể hắn ra. Nhờ đó, Xi Vưu dần dần hạ sốt.
A Hành dù sao cũng mới ốm dậy, tất bật nãy giờ khiến nàng mệt lử, rã rời cả tay chân, bèn bó gối ngồi nghỉ bên cạnh.
Xung quanh hồ lởm chởm toàn đá là đá, lại thêm cây cối rậm rạp, ánh trăng len qua tán lá chiếu lên mặt đá thành những đốm tròn nho nhỏ, trăng rọi bóng cây, cây soi xuống suối, suối vỗ vào đá, đá nâng niu bóng trăng, trong tĩnh có động, trong động có tĩnh, đẹp không bút nào tả xiết.
A Hành khoan khoái hít sâu mấy hơi, thấy vô cùng dễ chịu. Giày và quần nàng đã ướt sũng lúc lội qua suối, lại dính đầy bùn đất, đi rất khó chịu. Thấy Xi Vưu đã ngủ say, hơi thở trầm trầm, hẳn chưa thể tỉnh ngay được, nàng liền rón rén cởi bỏ y phục, ngâm mình xuống hồ, gột sạch quần và giày vắt lên tảng đá cho khô rồi ngoảnh lại trông chừng Xi Vưu, thấy hắn vẫn mê mệt, nàng yên tâm ngụp xuống hồ bơi lặn.
Nàng vui vẻ thi với đàn cá dưới nước, bơi từ bên này hồ sang bên kia hồ, rồi lại từ bên kia bơi về xem ai nhanh hơn, chợt thấy bao phiền não trong lòng đều tan đi theo làn nước.
Núi non bốn bể xanh biếc một màu như vẽ, đỉnh vút tận mây, khiến cả khung trời bất giác trở nên chật hẹp, vầng trăng tròn vành vạnh đang treo trên mảnh trời nhỏ hẹp đó, A Hành nằm ngửa trên mặt nước, giơ tay ra toan chạm vào mặt trăng, tuy biết rõ không thể nào chạm được nhưng vẫm thích giơ tay ra. Có lẽ nàng thích động tác vớt lấy mặt trăng bởi nó khiến lòng vô cùng khoan khoái, cũng có lẽ nàng chỉ thích ngắm làn nước trong veo chảy dài qua kẽ ngón tay mình, ánh trăng bàng bạc rọi xuống, trông như muôn ngàn viên ngọc long lanh, rơi tí tách xuống mặt hồ phẳng lặng tựa gương.
Đột nhiên, mấy cánh hoa đào đỏ thắm từ đâu bay lại, đậu xuống má A Hành. Nàng nhón lấy cánh hoa vẻ ngạc nhiên, bấy giờ đã là giữa hạ, lấy đâu ra hoa đào? Ngấng đầu trông lên, bấy giờ đã là giữa đỉnh núi, sườn núi xung quanh đều hồng rực sắc đào, sắc thắm ấy còn tiếp tục lan xuống dưới, chỉ lát sau, ngàn vạn gốc đào đã theo nhau nở rộ khắp cả đất trời đang chìm trong đêm tối cũng sáng bừng lên.
Ánh trăng trong như nước dịu dàng soi xuống, cánh đào rụng lả tả như mưa, khi mau lúc thưa, không ướt áo cũng chẳng lạnh người, chỉ thoang thoảng hương thơm ngan ngát.
Nhìn hoa bay rợp cả đất trời, A Hành như lạc vào cõi mộng, mơ màng ngoảnh lại, bắt gặp Xi Vưu đang ngồi trên tảng đá tươi cười ngắm hoa đào nở rực núi đồi, sắc mặt hắn tái nhợt, toàn thân run rẩy, hiển nhiên đã tốn rất nhiều linh lực mới có thể nghịch thiên tạo nên khung cảnh này.
“Ta trị thương cho ngươi không phải để ngươi vận linh lực làm hoa nở trái mùa.”
Xi Vưu ngẩng đầu ngắm vầng trăng vằng vặc, lẩm bẩm một mình: “Năm trăm năm trước, linh lực của ta còn rất thấp, Chúc Dung kéo theo một đám cao thủ Thần tộc tới đuổi giết ta, ta trọng thương, lại phải chạy quanh tìm nơi lẩn trốn, nhưng không sao trốn thoát. Khi chạy tới nơi này, ta nghĩ mình chẳng cầm cự được bao lâu nữa, nhưng ta thà chết cũng không muốn chết trong tay Chúc Dung. Trong lúc tuyệt vọng toan tung mình nhảy xuống vách núi, đột nhiên ta trông thấy một thiếu nữ áo xanh, tay vén váy, tay xách giày đi vào sơn động. Bấy giờ đương là lúc hoa đào nở rộ, giống như hôm nay vậy, rực rỡ đầy trời, đẹp như giấc mộng.”
Xi Vưu chìa tay ra hứng lấy những cánh hoa đào, mỉm cười nhìn nàng, “Cô thiếu nữ đó cũng lội xuống nước nô đùa hệt như bây giờ, chẳng khác nào tinh núi hồn hoa. Ta nấp trên đỉnh núi nhìn nàng, cảm nhận được sức sống căng tràn của ngày xuân, còn ta giống như loài dã thú động tình giữa mùa xuân, trong khoảnh khắc ấy, thân thể mới thật sự cựa mình tỉnh giấc, linh trí cũng theo đó mà thức tỉnh, lần đầu tiên nhận ra mình là ai.”
Nói rồi, hắn tuột khỏi tảng đá bước xuống hồ, tiến về phía A Hành. Nàng chợt thấy miệng khô lưỡi ráo, vội lùi lại, may sao trên mặt nước rụng đầy cánh hoa, che đậy giùm thân thể nàng.
Xi Vưu kể tiếp: “Ta chẳng rõ mình có cha mẹ hay không, càng chẳng biết mình từ đâu tới. Từ khi hiểu chuyện, ta đã sống cùng dã thú trong khe núi, nhưng lớn lên, hình dáng ta lại khác hẳn loài hổ báo. Thuở nhỏ, ta cũng thắc mắc vì sao mình không giống bọn chúng, tại sao chúng có vô số đồng loại mà ta chỉ trơ trọi một mình, ta muốn tìm được một kẻ làm đồng loại. Ta lẻn đến gần sơn trại, lén nhìn đám trẻ nô đùa, học tiếng của bọn chúng, bắt chước bọn chúng đi bằng hai chân, thậm chí còn trộm quần áo của chúng mặc lên mình cho giống với chúng, những muốn được chơi đùa cùng chúng, nhưng đám trẻ ném đá vào ta, phụ nữ lấy lửa đốt ta, đàn ông bắn tên vào ta, ta đành chạy tháo thân vào núi.”
Xi Vưu chỉ vào trái tim mình, “Lúc đó linh trí ta chưa thức tỉnh, còn chưa hiểu tại sao nơi này lại khó chịu đến thế, ta nổi giận giết sạch gia súc của họ, phá sập nhà họ, khiến bọn họ trông thấy ta là vắt giò lên cổ chạy, không dám bắn ta đánh ta nữa, nhưng chỗ này của ta vẫn chẳng dễ chịu chút nào, trái lại càng đau đớn hơn. Ta nấp trong bóng tối nhìn trộm họ, thấy mỗi khi uống rượu họ đều cười rộ lên vui vẻ, bèn đánh cắp rượu của họ, học theo bọn họ uống rượu, ngỡ rằng trong vò rượu có giấu bí mật để tươi cười vui vẻ, nhưng ta luyện mãi đến ngàn chén không say vẫn chẳng phát hiện ra bí mật gì cả, rốt cuộc phải làm sao mới có thể vui vẻ tươi cười đây?”
Xi Vưu thẫn thờ ngẩng mặt nhìn ánh trăng vằng vặc giữa trời, dáng vẻ bất lực chưa từng thấy ở hắn khiến A Hành kinh ngạc. Xem ra, dù ngày nay đã tung hoành bốn bể, đánh đâu thắng đó, nhưng hình bóng Tiểu Xi Vưu cô độc bơ vơ vẫn luôn canh cánh trong lòng hắn.
“Viêm Đế nói muốn mang ta tới Thần Nông sơn, tuy bề ngoài ta tỏ vẻ rất miễn cưỡng, khiến ông ta phải mời ta, cầu ta, nịnh nọt ta, nhưng kỳ thực trong lòng ta rất vui. Xưa nay chưa một ai mời ta tới nhà mình chơi cả, Viêm Đế là người đầu tiên. Ta lên Thần Nông sơn theo Viêm Đế học làm người, nơi đó có rất nhiều kẻ giống ta, ta có thể cùng bọn họ ngồi bên đống lửa uống rượu, nhưng ta còn cô độc hơn thuở sống trong rừng. Dạo ở trong rừng, ít ra ta có thể tự do tự tại nhảy nhót tung tăng, cao hứng thì hú lên, giận dữ thì gào rú, nhưng trên Thần Nông sơn, ta không thể sống hoang dã như thế được. Những kẻ tưởng chừng là đồng loại của ta luôn nhìn ta bằng ánh mắt sắc lạnh như dao, chúng e sợ ta, căm ghét ta, cười nhạo ta là cầm thú, chỉ có ta ngốc nghếch đáp lời hết lần này sang lần khác, còn ngỡ rằng có thể chơi đùa với chúng, làm đủ mọi động tác như chúng yêu cầu, nào là đi bốn chân như sói, nhảy nhót trên cành giống khỉ, chúng cười ta, ta cũng ngẩn ngơ cười với chúng. Tới khi bị Du Võng bắt gặp, mắng cho chúng một mẻ, ta mới hiểu ra cầm thú là để sỉ nhục, chúng bắt ta biểu diễn những động tác kia để làm nhục ta. Ta căm ghét ánh mắt bọn chúng, ghét tiếng cười của chúng, ta không muốn làm người nữa! Nghĩ là làm, ta liền phá