Tiêu Dao chính là đại bàng tọa kỵ của Xi Vưu. Thấy đại bàng đen cả gan bay lòng vòng ngay trên đầu mình, Liệt Dương hậm hực ngẩng đầu nhìn đại bàng quang quác mấy tiếng cảnh cáo, nào ngờ bị đại bàng lờ tịt. Lần đầu tiên Liệt Dương thấy một con chim không tuân lời mình, liền nổi cơn thịnh nộ, toan xông lên dạy cho đối phương biết thế nào là lễ độ.
A Hành vội nhăn lại: “Liệt Dương, đó không phải đại bàng thường mà là giống đại bàng do cá côn ở Bắc Minh[3] biến thành đó. Rồng đứng đầu các loài thủy tộc, phượng hoàng là vua của muôn chim nhưng dưới nước nó chẳng quy thuận rồng, trên trời cũng không xem phượng hoàng vào đâu cả, mày đừng trêu vào.” Cá côn Bắc Minh là loài dị thú thần kỳ nhất trên đại hoang, sinh tại Bắc Minh, chôn ở Nam Minh, vốn là thân cá, thường gọi là côn nhưng vừa ra khỏi trứng đã có thể biến thành chim, lúc hóa chim gọi là đại bàng, vô cùng nhanh nhẹn, nghe nói giống đại bàng do cá côn biến thành mỗi lần vỗ cánh có thể bay vút lên cao chín vạn dặm.
[3] Theo thiên Tiêu Dao Du trong Nam Hoa kinh của Trang Tử: “Bắc Minh có loài cá, tục gọi là côn. Thân mình rất lớn, chẳng biết tới mấy ngàn dặm. Hóa thành chim, tên gọi là chim bằng (đại bàng). Giang cánh bay lượn, sải cánh rộng như mây che rợp một góc trời. Thường nương sóng to gió cả mà bay thẳng tới Nam Minh.”
Tuy chưa hoàn toàn là chim nhưng mỗi lần đập cánh nó có thể bay xa mấy ngàn dặm, Xi Vưu giao Hà Đồ Lạc Thư cho nó quả vô cùng sáng suốt, bất kể thần tiên hay yêu quái cũng không sao đuổi kịp.
A Hành quay sang Xi Vưu, thẳng thắn: “Ta là Hiên Viên vương cơ, Hiên Viên Bạt.”
Xi Vưu chăm chú nhìn nàng, “Dù mang ơn cứu mạng của cô, ta cũng chỉ có thể cho cô ba ngày thôi, sau ba ngày ta sẽ giao Hà Đồ Thư Lạc cho Du Võng.”
“Được!”
Xi Vưu huýt một tiếng lanh lảnh, lập tức đại bàng đậu xuống ngay bên cạnh. Hắn nhảy lên lưng đại bàng, chìa tay cho nàng: “Muốn Hà Đồ Lạc Thư thì theo ta.”
A Hành phân vân nhìn A Tệ và Liệt Dương, chưa biết phải làm sao với chúng. Xi Vưu liền nói: “Chúng không đuổi kịp Tiêu Dao đâu, cô cứ đi với ta, chúng sẽ đến sau.”
A Hành nắm lấy tay Xi Vưu, nhảy lên lưng Tiêu Dao.
Tiêu Dao chỉ đợi có thế, liền vỗ cánh bay vút lên chín tầng mây, A Hành đứng không vững, hơi loạng choạng ngã ngửa ra sau, vừa vặn ngã vào lòng Xi Vưu, hắn bèn thừa nước đục thả câu, vòng tay siết chặt lấy nàng mặc nàng vùng vẫy, cả người hắn lắc lư lảo đảo nhưng vẫn ôm riết chẳng chịu buông, còn ghé tai nàng nói nhỏ: “Tiêu Dao bay nhanh lắm, hiện giờ ta chỉ đủ sức miễn cưỡng khống chế nó thôi, hay là cô muốn cả hai rơi xuống tan xương nát thịt hả? À mà cũng hay đấy, sống chẳng được chung chăn, chết lại chôn chung huyệt.”
Thân hình Xi Vưu chao đi, suýt nữa rớt khỏi lưng Tiêu Dao, A Hành hoảng sợ thét lên, đành để yên không dám giãy dụa nữa.
Tiêu Dao bay vùn vụt như tên bắn khiến A Hành không kịp trông rõ gì hết, chỉ thấy trắng xóa một màu, mây mù cuộn lên như từng đợt sóng đổ ập tới, quất vào mặt bỏng rát.
Xi Vưu thích thú phá lên cười khanh khách, Tiêu Dao cũng điên chẳng kém gì chủ, nghe tiếng hắn cười, nó càng cao hứng bay nhanh hơn, rồi đột ngột bổ nhào xuống dưới, mắt thấy sắp tan xác tới nơi, bỗng dưng nó lại bay vút lên không, xẹt ngang qua đỉnh núi, chớp mắt đã lên đến chín tầng mây. A Hành vừa kịp thở phào đã lại thấy Tiêu Dao bất ngờ chao nghiêng người, nàng vội hốt hoảng bám chặt lấy Xi Vưu.
Nỗi sợ hãi ban đầu tan đi, dần dà, một cảm giác khác lại len vào lòng.
Trời cao lồng lộng, đường mây thênh thang, dường như thế gian chỉ còn hai người bọn họ, chẳng có bất kỳ thứ gì đuổi kịp được hai người, cũng không còn gì trói buộc nổi họ nữa, cả đất trời trải ra bát ngát cho họ thả sức ngao du.
Xi Vưu ghé tai nàng hỏi lớn: “Cô thấy thế nào?”
A Hành lặng yên không đáp, nhưng thân thể đang căng cứng từ từ thả lỏng ra, vô tình tựa vào lòng hắn, đến linh lực cũng tiêu tán, phó mặc tất cả sống chết vào tay Xi Vưu. Ít ra trong lúc này nàng cũng có thể dựa cả vào hắn, tạm thời vứt bỏ hết mọi trách nhiệm và ràng buộc.
Cảm thấy linh lực trên người A Hành cơ hồ đều tan biến hết, Xi Vưu thoáng kinh ngạc nhưng hắn chẳng buồn nghĩ thêm nữa, chỉ ôm chặt lấy nàng, cùng nàng thả sức ngao du giữa chín tầng mây, lúc vút lên cao, khi chao xuống thấp.
Bay mãi bay mãi, chẳng rõ đã qua bao lâu, đột nhiên Tiêu Dao lại lao vút xuống khiến A Hành Thấy như thể mình sắp ngã lộn cổ, lồng ngực nàng bị lên chặt cơ hồ nghẹt thở, hai người một đại bàng cứ thế vùn vụt lao xuống, lâu thật là lâu, đương lúc nàng ngỡ sẽ rơi thế này mãi mãi thì đà lao chợt dừng sững lại, may có linh lực của Xi Vưu, bằng không hẳn nàng đã bắn văng ra.
Xi Vưu khẽ nói: “Chúng ta về tới nhà rồi.”
A Hành sững sờ, từ từ mở mắt ra, thấy hoa đào nở rực cả triền núi, như mây như ráng, lộng lẫy đẹp tươi, mấy chái nhà trúc xanh biêng biếc thấp thoáng ẩn hiện sau những cội đào đỏ thắm.
Thì ra bay suốt bao lâu, họ cuối cùng đã đến Cửu Lê.
Xi Vưu chìa tay, Tiêu Dao liền nhả ra một quả trứng ngọc to xấp xỉ quả trứng gà rồi bay vút lên, biến mất giữa trời đêm, chẳng hề kêu một tiếng.
Hắn giơ quả trứng ra lắc lắc trước mặt nàng rồi lại bỏ vào trong áo: “Hà Đồ Lạc Thư cô muốn ở đây này.” Dứt lời hắn đi thẳng về phía thôn trại.
A Hành cắn môi, rảo bước đuổi theo hắn.
Tới bản Xi Vưu trời còn chưa sáng, bốn bề yên tĩnh, Xi Vưu ngả người nằm xuống tế đài, ngửa mặt nhìn trời.
A Hành ngồi xuống bên hắn: “Ngươi định làm gì trong ba ngày này?”
Xi Vưu đặt tay lên môi ra hiệu cho nàng đừng lên tiếng rồi yên lặng ngắm bầu không. Lát sau, hắn nhắm nghiền mắt lại, chìm vào giấc ngủ.
A Hành đành lẳng lặng ngồi bên hắn, thấy màn đêm ở Cửu Lê yên bình xiết bao, nhẹ nhõm xiết bao, chẳng bao lâu sau, mí mắt nàng cũng trĩu xuống. Mấy ngày nay nàng hết về dự hôn lễ của Tứ ca lại vội vội vàng vàng đi Ngu uyên đoạt Hà Đồ Lạc Thư, tinh thần luôn căng như dây đàn, chẳng khi nào được ngơi nghỉ, lúc này vừa thả lỏng, nàng liền thấy buồn ngủ díp cả mắt, bèn dựa vào tường ngủ thiếp đi.
Sáng sớm ra, đám người Vu sư thức dậy toan quét dọn tế đài thì phát hiện trên đó có người. Một nam tử vận hồng bào rách rưới nằm ngửa trên tế đài, tay chân giang ra thành hình chữ “đại”, tuy đang say ngủ nhưng vẫn không giấu được vẻ ngông cuồng, cách đó không xa còn một nữ tử áo xanh ngồi co ro dựa vào tường mà ngủ, nụ cười vương vấn trên môi.
Đại vu sư vội vã chạy đi gọi Vu vương. Vu vương chống gậy tới nơi, trông thấy bèn cười móm mém xua tay ra hiệu mọi người lẳng lặng lui ra.
Ngủ một giấc dài thật dài, tỉnh dậy A Hành mới nhận ra mình đang đắp một tấm thảm lông thú, còn Xi Vưu đã mất dạng. Nàng vội bật dậy gọi toáng lên: “Xi Vưu!”
Liền nghe giọng hắn uể oải: “Gọi gì thế?”
A Hành ngó đầu ra, trông thấy Xi Vưu đang ngồi dưới cội đào sưởi nắng cùng Vu vương. Hắn cởi trần, bên dưới chỉ quấn một chiếc khố đen dài đến bắp chân, để lộ ra làn da nâu rám nắng khỏe khoắn.
A Hành vừa bước xuống tế đài vừa ngẩng đầu nhìn trời, thấy vầng dương đã ngả về Tây, nàng không khỏi cau mày tự trách mình ngủ say như chết.
Xi Vưu vươn vai, cố ý đãi giọng nói: “Ai da, sắp hết một ngày rồi mà còn chưa biết Hà Đồ Lạc Thư giấu ở đâu nữa!”
A Hành càng trông hắn càng ngứa mắt liền đá lật nhào cái ghế hắn đang ngồi khiến hắn ngã lăn ra đất, đá xong mới sực nhớ ra Xi Vưu là vị thần được cả Cửu Lê tôn kính, làm vậy trước mặt Vu vương chẳng khác nào sỉ nhục cả Cửu Lê, bèn quay sang cười lỏn lẻn với vị Độc vương mà Thần tộc cũng phải nhường nhịn ba phần.
Vu vương thấy vậy chỉ cười khà, khom lưng đứng dậy nói với Xi Vưu đang nằm bò dưới đất: “Hai vị khéo đến quá, tối nay là tết Khiêu Hoa của Cửu Lê, hai vị nhớ tới xem náo nhiệt nhé.”
Đợi Vu vương đi khỏi, A Hành liền ngồi ngay vào chiếc ghế bập bênh của lão, vừa lắc lư vừa ngắm Xi Vưu, thầm nghĩ không biết hắn giấu Hà Đồ Lạc Thư ở chỗ nào.
Xi Vưu bật dậy vọt lại ngồi xuống ghế bập bênh, thấy A Hành chăm chú nhìn mình, ánh mắt hắn thoáng vẻ lạnh lùng, như cười mà chẳng cười nói: “Nếu cô muốn biết thì lại đây mà sờ, sờ khắp cả người ta là biết ngay!”
“Phì!” A Hành đỏ mặt lườm hắn rồi quay ngoắt đi.
Ánh mặt trời rọi qua tán lá, ấm áp mà không chói gắt khiến thân thể thư thái vô cùng, cơ hồ xương cốt đều tan chảy ra cả.
Một bên tế đài là núi lửa điệp trùng, bên kia lại là vách non dựng đứng, trên vách nở đầy hoa dại, rực rỡ như gấm lụa, ngọn thác từ đỉnh tuôn ra tựa dải lụa trắng phất phơ rào rào đổ xuống những tảng đá bên dưới, khiến hơi nước bốc lên mịt mù. Ánh mặt trời rọi qua tạo thành nửa dải cầu vồng lấp lánh thấp thoáng sau bức màn hơi nước, nghiêng nghiêng vắt ngang tế đài trắng muốt, bắc lên tận trời.
Nước từ thác đổ xuống chảy vào hồ, men theo con lạch trắng phau đá cuội, lượn vòng quanh tế đài, trên mặt nước lác đác mấy cánh hoa, thi thoảng còn thấy vài chú cá mải vờn nhị hoa nhảy vọt lên rồi lại quẫy đuôi rơi tõm xuống nước, làm bắn tung tóe vô vàn bọt nước lấp loáng ánh bạc.
A Hành ngây người ra nhìn, bất giác quên bẵng cả Hà Đồ Lạc Thư, đến nỗi cánh đào rơi đầy đầu tóc cũng chẳng hay.
Xi Vưu nghiêng đầu ngắm nàng, vẻ mặt lạnh lùng trong mắt tan dần, thay vào đó là vô vàn âu yếm.
Một người ngây ra ngắm cảnh sắc thiên nhiên biến ảo, một kẻ đắm đuối ngắm người kia, hai người cứ thế tạo nên một bức tranh phong cảnh u nhã mà êm đềm.
Mãi tới khi mặt trời xuống núi, chim mỏi về rừng, thấy một đàn chim bay ngang đầu, A Hành mới sực nhớ ra mục đích của chuyến đi này.
Ánh mắt nàng chợt tối sầm, môi mím chặt, cả gương mặt toát lên vẻ kiên định, thấy vậy, cặp mắt Xi Vưu cũng trở nên lạnh buốt, hắn quay ngoắt đi trước khi nàng kịp ngoảnh lại.
A Hành quay lại trông thấy Xi Vưu đang cười ngạo nghễ, phóng mắt ngắm nhìn rừng đào tít tắp trên sườn núi.
Vừa lúc đó Vu nương sai người tới mời bọn họ dùng bữa, Xi Vưu liền đứng dậy đi thẳng, buông thõng một câu, “Tối nay ta đi chơi tết Khiêu Hoa, nếu còn nhớ mình từng hứa những gì thì cô cứ tới xem.”
A Hành ngồi lặng trên ghế bập bênh không đáp, chỉ ngẩng đầu nhìn hoa đào rợp rợp trên đầu.
Chính ngày này năm xưa, trong lúc nàng cần Xi Vưu nhất, chẳng nề đánh lén Đại ca, trốn khỏi Triêu Vân phong để đợi hắn suốt đêm dưới cội đào thì hắn lại lỡ hẹn không tới. Nếu hôm đó hắn tới đúng hẹn, chẳng rõ hiện giờ bọn họ sẽ ra sao? Cũng ngày này năm ngoái, nàng nhọc công tính toán suốt một năm mới lấy cớ dạy dân chăn tằm dệt lụa để xin Tuấn Đế xuất cung lẻn tới Cửu Lê, đợi Xi Vưu đến nửa đêm, nhưng chỉ đợi được một manh áo đỏ đứt tình đoạn nghĩa.
Năm nay ngày này lại đến, nhưng nàng chẳng rõ mình có còn dũng khí tin vào lời thề ước dưới cội hoa đào không gặp không về nữa hay chăng?
Như thường lệ, tết Khiêu Hoa chẳng có tế đài, chẳng cần Vu sư, cũng chẳng thấy vật tế, chỉ có từng đống lửa bập bùng cùng muôn ngàn đóa hoa nở khắp núi rừng, vô số đôi nam nữ ngồi bên đống lửa, dưới bóng hoa hát ca nhảy múa.
Nghe kể rằng mấy vạn năm trước, nam nữ các tộc có thể gặp gỡ hẹn hò nhau vào một ngày nhất định rồi tự ước hẹn hôn nhân, nhưng theo thời gian, tập tục này dần dần mai một chỉ còn Cửu Lê tộc vẫn theo lệ cũ, nam nữ yêu nhau không cần xin phép mẹ cha, cũng ch