i họ nhưng không phải chi chính nên mới bị ngươi ức hiếp phải bỏ chạy đấy thôi!” A Hành cốc đầu hắn rồi ra dấu im lặng, tỏ ý bảo hắn đừng làm ồn, nghe xem lão kia nói gì.
“… Thời trẻ Thiếu Hạo rất mê rèn sắt, thường trà trộn vào những lò rèn dân gian học lén tay nghề của người ta. Nhưng nghề rèn không phải cứ quan sát là học được, mà phải trải qua trăm tu ngàn luyện mới thành. Thiếu Hạo liền lui về quê mở một lò rèn, chuyên làm cày cuốc cho nông dân, nồi niêu xoong chảo cho phụ nữ, vì sản phẩm rất tốt nên dân chúng bảy thôn tám xã xung quanh đều kéo tới lò của y. Suốt mấy năm làm thợ rèn, những người tới nhờ y sửa sang lại nông cụ chẳng ai biết y là Thiếu Hạo, mãi tới khi Tuấn Đế đời thứ sáu lâm bệnh nặng, Thần Nông thừa dịp dấy binh áp sát, Cao Tân nháo nhào đi tìm kiếm một lò rèn thì bà con quanh đó mới hay. Thần tộc Cao Tân hay kể chuyện Thiếu Hạo cởi áo ngắn, quăng thiết chùy, khoác vương bào, cầm trường kiếm một mình bức lui mười vạn đại quân Thần Nông, nhưng trăm họ Cao Tân lại thích thuật chuyện Thiếu Hạo rèn sắt hơn.
Lão già râu dê hớp một ngụm nước rồi hắng giọng kể tiếp: “Có lẽ vì thân phận đã lộ nên Thiếu Hạo không quay lại vùng quê đó nữa, nhưng nơi ấy sau cũng đổi tên thành Thiết Tượng Phô[1], một là để tưởng nhớ chàng thợ rèn Thiếu Hạo, hai là bởi lúc còn ở đó, mỗi khi có người tới xin học nghề rèn, y đều tận tâm chỉ dạy, khiến trong vùng nổi lên rất nhiều thợ rèn kỹ nghệ phi phàm, lò rèn mọc lên san sát, đám quý tộc Nhân tộc hay tới đó sắm vũ khí tùy thân để thể hiện địa vị, nhìn binh khí mấy vị tiểu ca ngồi đây mang theo người có vẻ bất phàm, e rằng cũng từ Thiết Tượng Phô mà ra.”
[1] Lò rèn. (ND)
Mấy gã thiếu niên sững người, bất giác đặt tay lên bội kiếm mà mình vẫn lấy làm tự hào. Lão già mỉm cười: “Cao Tân quốc trọng lễ nghĩa, phân chia đẳng cấp giàu nghèo rất rạch ròi, vậy mà Thiếu Hạo thân là vương tử tôn quý lại đi rèn nông cụ cho dân, còn tận tâm chỉ bảo những kẻ ham học hỏi. Hơn ngàn năm nay có vẻ như y lánh đời ở ẩn nhưng khắp Cao Tân nơi nào cũng có những truyền thuyết về việc y diệt ác trừ yêu, cứu khổ giúp yếu. Lần này việc trấn áp bạo dân rất tốn sức, lại chẳng được lợi lộc gì, các thần tiên khác tránh còn không kịp, vậy mà Thiếu Hạo chủ động xin đi, đủ thấy y nhất định không phải kẻ hèn nhát sợ sệt. Lão đây thấy mấy vị tiểu ca ăn mặc như sắp đi xa, những lời vừa nãy nói trên lãnh thổ Thần Nông thì chẳng sao, nhưng ngàn vạn lần đừng tức giận mà nói càn ở Cao Tân, muôn dân ở đó vô cùng kính trọng Thiếu Hạo, e rằng sẽ kích động dân chúng đó.”
Thấy mấy gã thiếu niên Thần Nông sa sầm mặt, lão già lại chuyển chủ đề: “Nói đến hạn hán chẳng thể không ca ngợi Đại vương cơ[2] Vân Tang của Thần Nông. Thần Nông và Cao Tân đều bị hạn hán nghiêm trọng nhưng vương cơ luôn thương xót muôn dân, dốc sức vì bách tính nên đến giờ Thần Nông chỉ phải chịu thiên tai chứ chẳng có nhân họa. Còn Cao Tân và Trung Dung vương tử không gánh vác nổi, dân chúng nổi loạn khiến các quan lại Thần tộc địa phương bị đánh chết, may giờ có Thiếu Hạo chủ động xin đi dẹp loạn, bằng không e rằng nhân họa còn dữ dội hơn thiên tai nữa kìa.”
[2] Vương cơ: Trước thời nhà Chu, con gái của đế vương và chư hầu đều gọi là vương cơ, từ thời nhà Chu trở đi, con gái thiên tử dần dần đổi sang gọi là công chúa, con gái của chư hầu hoặc thân vương gọi là quận chúa. (ND)
Bấy giờ vẻ mặt đám thiếu niên Thần Nông mới giãn ra, họ tránh không nhắc tới Thiếu Hạo nữa, chỉ nhao nhao tán dương Vân Tang lên tận mây xanh.
Tây Lăng Hành cúi đầu, chẳng hiểu đang nghĩ gì, vẻ mặt nửa mừng nửa lo.
Xi Vưu cũng có vẻ ngẩn ngơ, đột nhiên cau mày đứng dậy bước ra ngoài, đứng giữa đồng hoang nghiêng tai nghe ngóng.
Để trốn tránh Xi Vưu, Tây Lăng Hành đã phải thay đổi hành trình hết lần này sang lần khác, cũng hết lần này sang lần khác vô tình tránh khỏi Chúc Dung, nhưng lần này, dường như Chúc Dung đã nhận ra điều gì đó nên tìm thấy hành tung bọn họ rất nhanh, chắc hẳn không thể đánh bài chuồn được nữa, phải tính cách khác thôi.
Thấy Xi Vưu quay lại, Tây Lăng Hành liền hỏi: “Ngươi ra ngoài làm gì đó?”
Xi Vưu cợt nhả cười đáp: “Ta sực nhớ ra chuyện chung thân đại sự còn phải hỏi ý kiến cha mẹ nên vừa nãy đi nhờ người đưa tin về nhà, mời cha mẹ tới gặp cô.”
Tây Lăng Hành vừa hớp một ngụm canh nóng, nghe hắn nói liền mắc nghẹn, suýt nữa chết sặc. Nàng yếu ớt chỉ mặt Xi Vưu, giận đến nỗi không thốt nên lời.
Ăn xong bữa, hai người bèn chọn hai gian phòng sát vách nghỉ tạm.
Đêm xuống, Tây Lăng Hành nằm trên giường trằn trọc hoài không ngủ nổi, trong đầu cứ lởn vởn câu chuyện Cao Tân Thiếu Hạo xin đi dẹp loạn vừa nghe kể. Lại nghĩ tới gã khùng Xi Vưu, nàng rùng cả mình, quyết định bỏ đi ngay lập tức, lần này nàng muốn đi về hướng Đông, xem xem Cao Tân Thiếu Hạo mà mình đã nghe danh từ nhỏ đến lớn rốt cuộc ra sao.
Nàng quyết định khởi hành ngay giữa đêm để cắt đuôi Xi Vưu.
Lựa lúc đêm khuya người vắng, Tây Lăng Hành bèn khoác tay nải rón rén rời khỏi quán trọ.
Vừa đi vừa thấp thỏm, sau cùng Tây Lăng Hành dừng bước, ngoảnh sang phải rồi ngoảnh sang trái, thấy chẳng có ai cả, nàng vừa thở phào nhẹ nhõm, tươi cười quay đầu lại lập tức trợn tròn mắt lên.
Xi Vưu đang đứng ngay trước mắt, vẻ mặt bực bội, nghển đầu nhìn về phía sau nàng, dường như không hiểu sao nàng lại lén lén lút lút như thế. Hắn ghé tai Tây Lăng Hành căng thẳng hỏi: “Sao thế? Có tên vô lại nào bám đuôi chúng ta ư?”
Tây Lăng Hành hít sâu một hơi, lấy tay che mặt rồi cắm cúi cất bước, chẳng buồn liếc Xi Vưu, chỉ sợ mình không nhịn được sẽ giết luôn tên vô lại này.
Xi Vưu lẵng nhẵng bám theo sau thở vắn than dài: “Có một chuyện thực hổ thẹn, vừa nãy ta nhận được tin bề trên trong nhà sai đi làm chút việc, e rằng phải xa cô mấy ngày rồi.”
Tây Lăng Hành lập tức bỏ ngay tay xuống, cười tươi rói: “Không sao không sao, nam tử hán đại trượng phu chí ở tứ hải, lòng theo ngũ hổ, công truyền thiên thu, đức lưu vạn tuế, chết để tiếng thơm, xả thân vì nghĩa… khụ… nói tóm lại là phải đặt đại sự làm trọng!”
Nét cười thoảng qua mắt Xi Vưu nhưng hắn vẫn làm bộ nhăn nhó: “Có điều ta nghĩ đi nghĩ lại thấy đi lo việc cũng quan trọng, mà báo ơn cũng rất quan trọng…”
Tây Lăng Hành liền tỏ vẻ buồn bã vỗ vai hắn: “Thật ra ta cũng chẳng nỡ xa ngươi, có điều phải đặt đại sự làm trọng!”
Xi Vưu rưng rưng cảm động, bèn nắm chặt tay nàng, “A Hành, thấy cô quyến luyến thế này, có lẽ ta sẽ ở lại!”
Khóe mắt bờ môi Tây Lăng Hành cùng lúc giật giật, “Ngươi sẽ ở lại thật chứ?”
“Sẽ ở lại thật đó!”
“Thật chứ?”
“Thật mà! Vì Tây Lăng Hành cô nương, ta tình nguyện…”
Tây Lăng Hành thình lình vung tay đấm bộp vào mặt Xi Vưu khiễn gã ngã lăn ra ngất xỉu.
Nàng ngồi xuống đắc ý vỗ vỗ má hắn, cười nhạt: “Tiểu tử thối! Chúng ta không hẹn ngày gặp lại!”
Khoác tay nải lên, nàng thấy cả người lâng lâng phơi phới, nhưng vừa tung tăng đi được một đoạn, nàng càng nghĩ càng thêm sợ, lỡ có kẻ xấu đi ngang qua thì sao? Lỡ thú dữ chạy tới thì thế nào? Lỡ…
Cuối cùng Tây Lăng Hành đành cuống cuồng chạy trở lại, nhưng gã Xi Vưu hôn mê nằm đó đã biến mất.
Nàng hoảng hốt dáo dác nhìn quanh tìm kiếm, nhưng vừa ngẩng đầu lên đã trông thấy một hàng chữ viết trên cây.
“Vợ yêu, chúng ta sắp gặp nhau rồi!” Cạnh đó còn vẽ một tên tiểu nhân áo đỏ đang cười toe toét.
Tây Lăng Hành nổi giận vung chân đá tên tiểu nhân kia một cái, lập tức kêu thét “ai da”, đau đến nỗi nghiến răng nghiến lợi, ôm chân nhảy lò cò.
Hai ngày sau, nàng bước vào địa giới Cao Tân quốc.
Sông ngòi cạn khô, đất đai cằn cỗi, xác chết đầy đồng, cảnh tượng nhuốm màu âm u. Tây Lăng Hành buồn bã ủ ê nhưng chẳng làm sao được bởi đây không phải nhân họa mà là thiên kiếp, dù là thần tiên cũng chẳng thể trái ý trời.
Không muốn nhìn cảnh tượng thê thảm đó thêm nữa, nàng bèn tránh những con đường lớn đông người tụ tập, cứ lựa rừng sâu núi thẳm mà đi.
Đi suốt một ngày, đang định kiếm nơi nghỉ chân, bỗng nàng nghe thấy tiếng trống thình thình đầy phấn khích. Lần theo tiếng trống mà đi, nàng lại nghe thấy giọng ca thánh thót cùng tiếng hoan hô của đám đông.
Tây Lăng Hành không khỏi mỉm cười rảo bước thật nhanh, nhưng khi bước vào ngôi làng cổ kính đó, nàng chẳng thấy cảnh tượng gì vui vẻ mà trái lại là sự tàn nhẫn khiến người ta kinh sợ.
Hai thiếu nữ trang điểm lộng lẫy nằm dài trên đàn tế, một cô bị mổ phanh bụng, đã tắt thở, thầy tế mang mặt nạ tay cầm chủy thủ đầm đìa máu, tay bưng trái tim còn phập phồng, vừa hát vừa múa, thiếu nữ kia nhắm nghiền hai mắt, khóe môi mấp máy liên tục, chẳng hiểu đang ca hát hay cầu nguyện.
Tây Lăng Hành từng nghe kể về những bộ tộc hiến tế cả người để cầu trời đất phù hộ. Đó là phong tục địa phương, nàng không sao thay đổi được, nhưng nàng cũng chẳng thể trơ mắt nhìn một thiếu nữ tươi tắn như hoa chết thảm ngay trước mặt mình.
Tây Lăng Hành vận linh lực nhổ bật vô số gốc cây khiến đám người quanh đài tế nháo nhác lo tránh né, rồi thừa cơ xông tới cứu luôn thiếu nữ trên đài bỏ chạy.
Nàng thiếu nữ đó tên Sách Mã, là cô gái thông minh nhất trong tộc nên bị chọn làm vật tế trước trận chiến để cầu thắng lợi.
Tây Lăng Hành hỏi: “Các người muốn chống lại quân đội do Thiếu Hạo thống lĩnh sao?”
Sách Mã đáp: “Tôi đâu biết mấy gã Thần tộc đó, tôi chỉ biết chúng giúp bọn quý tộc hà hiếp chúng tôi, chặn đứng mạch sông khiến chúng tôi mất nguồn nước uống, đều là đồ vô lại.”
Tây Lăng Hành gắng bênh vực Thiếu Hạo: “Vị thần đến đây lần này không giống bọn trước kia, y nhất định sẽ nghĩ cách giúp các người điều hòa lại nguồn nước chứ chẳng thiên vị đám quý tộc đâu, các người khỏi phải liều mạng kháng cự.”
Sách Mã trầm ngâm hồi lâu, đoạn cười nói: “Cô là thần tiên tốt, tôi tin cô! Đợi trời tối tôi sẽ lén về nhà nói với cha. Hảo tỷ tỷ, tôi thấy cô có thể sai khiến cây cô, cô tu luyện mộc linh ư?”
Tây Lăng Hành gật đầu.
Thấy trời sắp tối, Sách Mã liền vào rừng nhặt cành khô, rau dại về làm bữa tối cho Tây Lăng Hành. Nàng bảo cô ta đừng bày vẽ, nhưng Sách Mã đáp: “Cô cứu tôi mà tôi chẳng có gì báo đáp, đây là cách duy nhất tôi có thể làm để tạ ơn cô, bất kể cô ăn hay không tôi cũng phải làm.”
Sách Mã dùng mảnh đá lõm làm nồi, nấu một nồi canh rau rừng lạ miệng rồi đong đầy canh vào hai ống trúc, tự uống trước nửa ống, sau đó mới ngẩng lên nhìn Tây Lăng Hành, có vẻ nài nỉ.
Tây Lăng Hành chẳng nỡ từ chối, bèn cùng uống với cô.
Uống hết canh, nàng bỗng thấy đầu váng mắt hoa, linh lực ngưng trệ, vội hỏi, “Cô cho tôi ăn cái gì đó?”
Sách Mã lạnh lùng đáp: “Là một loại nấm hiếm trong núi, sinh trưởng giữa đám tro tàn sau trận sấm sét, nó vô hại với Nhân tộc chúng tôi nhưng những kẻ tu luyện mộc linh của Thần tộc nếu ăn vào sẽ mất hết sức lực, trở thành người phàm như chúng tôi vậy.”
Lần đầu tiên Tây Lăng Hành hiểu được tại sao Thần tộc vừa xem thường lại vừa kiêng dè Nhân tộc, không chỉ bởi Nhân tộc đông đúc mà còn vì trời đất vạn vật tương sinh tương khắc, ông trời từ lâu đã ban cho họ những bảo bối để khắc chế Thần tộc, chỉ cần vận dụng khéo léo thì con người cũng có thể đánh bại Thần linh, giống như con đê có thể ngăn dòng nước