Thuở nhỏ, Tần Chiêu Chiêu thích nhất hai việc là ăn và chơi.
Chương 1
Thuở nhỏ, Tần Chiêu Chiêu thích nhất hai việc là ăn và chơi.
Thật ra, đứa trẻ con nào cũng ham ăn, ham chơi, nhưng có thể coi Tần Chiêu Chiêu là ham ăn, ham chơi nhất trong số đó. Về khoản ăn uống, miệng cô đặc biệt tham lam, không bao giờ nhịn được khi thấy đồ ăn, nước miếng cứ ứa ra, vô cùng tèm thuồng.
Khi đó là những năm 80 của thế kỷ Xx, cái ăn cái uống còn thiếu thốn nhiều. Măc dù Cải tổ kinh tế(1) như làn gió xuân tươi mới đã bắt đầu thổi qua những vùng duyên hải hẻo lánh, nhưng đối với những thành phố nằm sâu trong đại lục, cái đó vẫn chỉ như “gió xuân không qua nổi ải Ngọc Môn(2)”, chẳng thấm tháp gì.
(1) Cải tổ kinh tế Trung Quốc (Cải cách khai phóng): là một chương tình thực hiện các thay đổi về kinh tế gọi là “Chủ nghĩa xã hội mang màu sắc Trung Quốc” do Đặng Tiểu Bình đề xướng và lãnh đạo từ cuối những năm 70 của thế kỷ XX và vẫn tiếp tục ở đầu thế kỷ XXI với muc tiêu cải tổ nền kinh tế Trung Quốc, tạo ra giá trị thặng dư đủ để cung cấp tài chính do công cuộc hiện đại hóa nền kinh tế của Trung Quốc đại lục. (2) Nguyên văn: “Xuân phong bất độ Ngọc Môn quan”, trích Lương Châu từ của Vương Chi Hoán đời Đường. Ngọc Môn quan là cửa ải trọng yếu trên tuyến đường giao dịch của Trung Quốc với các nước Tây Vực, di tích này vẫn còn tại Đôn Hoàng, tỉnh Cam Túc. Tần Chiêu Chiêu sống cùng ba mẹ tại một thành phố “gió xuân chưa thổi tới” trong đại lục. Đó là một thành phố công nghiệp nhỏ thuộc tỉnh Giang Tây, hầu như tất cả các xí nghiệp quốc doanh lớn bé trong thành phố đều lấy lên “Nhà máy”, không giống bây giờ đổi hết thành hai chữ “Công ty” theo lối phương Tây. Ngày đó, hai người gặp nhau lần đầu, muốn biết nơi công tác của nhau sẽ hỏi: “Bác ở nhà máy nào vậy?”
Ba mẹ Tần Chiêu Chiêu cùng làm trong một nhà máy cơ khí quốc doanh. Nhà máy trải suốt một vùng rộng lớn ở ngoại ô phía đông thành phố, ngoài những dãy nhà xưởng rộng lớn còn có nhà ăn, ký túc xá, cửa hàng, chợ, nhà khách, rạp chiếu phim, bệnh viện, nhà trẻ, trường học… thậm chí còn có cả chi nhánh bưu điện, ngân hàng. Tất cả gói gọn lại như một vương quóc nhỏ lấy nhà máy làm tủng tâm. Vương quốc này nằm liên kề với mấy nhà máy hầm mỏ quy mô vừa và nhỏ cùng nhiều thôn xóm vùng ngoại ô phía đông, tạo nên một khu vực thành thị - nông thôn kết hợp với nét đặc sắc riêng. Cả vùng này sinh ra vì có nhà máy, sống được nhờ có nhà máy nên tên cũng lấy tên nhà máy mà đặt. Nhà máy có tên “Nhà máy cơ khí Trường Thành”, thường gọi tắt là Trường Cơ, vì thế cả vùng này gọi là khu Trường Cơ.
Hầu hết cán bộ, công nhân viên làm việc tại Trường Cơ đều sống trong những gian nhà nhỏ do nhà máy phân cho. Phòng ốc được xây từ những năm 60, đa số đều là nhà cấp bốn, tường thần một màu gạch đỏ tươi lợp mái ngói xanh. Nhà cửa lô nhô cao thấp dày đặc suốt hai bên trái phải dọc theo sườn đồi, trải nguyên môt triền núi. Nhà thì nhiều mà không gian có hạn nên mỗi khi trong dãy nhà có ai đó nói to một chút là hai bên hàng xóm đều nghe rõ mồn một. Nếu chẳng may có nhà nào đánh mắng nhau ầm ĩ, hàng xóm ba bề bốn bên đều biết mà kéo tới xem náo nhiệt.
Tần gia sống trong một căn hộ dành cho gia đình nằm phía trên cùng bên trái dãy nhà cao nhất ở sườn núi phía đông của khu tập thể. Các dãy nhà có chừng chục gia đình, mỗi nhà có hai gian lớn bé kiểu cách giống nhau, tổng diện tích chừng mười bảy mét vuông, dọc theo tường nhà ngoài còn nối thêm một dãy phòng bếp hẹp và dài, nhỏ tới mức hai người cùng chui vào là không xoay nổi người. Hai hộ dùng chung một gác xép, không có nhà vệ sinh riêng, muốn đi vệ sinh phải tới nhà vệ sinh công cộng gần đó. Riêng việc tắm rửa, mùa hè có thể xách nước vào tắm trong nhà bếp, đến mùa đông đành sang nhà tắm của nhà máy.
Ngày đó, đời sống của công nhân viên chức nhà máy phần lớn đều khó khăn. Lương tháng không cao nên hết giờ làm nhiều người tranh thủ khai khẩn đất hoang quanh nhà để gieo luống rau hoặc vây rão nuôi vài ba con gà, lấy cái đắp đổi qua ngày. Những ngày tháng ấy, ngoại trừ ba bữa cơm một ngày, đám trẻ con không có tiền thêm món đồ ăn vặt nào khác, người lớn không nỡ phung phí tiền bạc cho những thứ như vậy. Thỉnh thoảng được cho vài hào, mua mấy viên kẹo xù xì goác cạnh ngậm trong miệng là đã thấy vui mừng như nở hoa trong lòng rồi.
Cũng may, dẫu người lớn thường xuyên tiết kiệm tiền mua đồ ăn thức uống những mỗi dịp lễ tết, nhà máy đều phát phúc lợi cho nhân viên, hầu hết đều là đồ ăn: có khi là những túi bánh quy đào giòn tan, có lúc lại là từng thùng lê, táo hoặc bánh Trung thu… Mỗi lần xưởng phát phúc lợi là một lần vui vẻ của cô bé Tần Chiêu Chiêu, bởi vì như vậy đồng nghĩa với việc được ăn uống thỏa thích.
Thời điểm vui vẻ nhất trong năm đương nhiên là Tết âm lịch, chẳng những nhà máy phát đồ mà ở nhà ba mẹ cũng sẽ làm thêm vài món ngon đón Tết: bánh đậu chiên giòn này, bánh bỏng gạo này, còn cả gừn ngâm đường nữa… nhà nào cũng giống nhà nào. Đám trẻ con vô cùng hăm hở tới từng nhà chúc Tết, ăn hoa quả. Đứa nào cũng chọn chiếc áo thật nhiều túi, ăn no nê rồi còn cố nhét cho đầy túi mới thỏa mãn rời đi.
Ngoài những ngày lễ tết được phát món này món kia, hằng năm mỗi khi hè vè, tới mùa dưa hấu, nhà máy lại cử vài xe tải tới các huyện lân cận mua dưa hấu về bán rẻ cho công nhân viên trong xưởng, cứ năm hào một cân, thật như vừa bán vừa cho, mỗi người được mua tối đa hai mươi lăm cân. Mỗi khi tới ngày xe tải lại được phen mừng vui hớn hở, một đoàn con nít lô nhô đứng chờ trên đường lớn trước cổng nhà máy, hết mong lại ngóng, chỉ hy vọng xe dưa có thể về sớm. Thế nhưng, có lần đoàn xe chở dưa gặp trục trặc giữa đường nên tới tận tối mịt vẫn chưa thấy đâu, rất nhiều đứa trẻ khóc lóc, sụt sịt, nhất định không chịu đi ngủ. “Con muốn ăn dưa hấu cơ, phải ăn dưa xong mới đi ngủ cơ.”
Tần Chiêu Chiêu chính là đứa khóc dữ nhất, bất kể ai dỗ dành thế nào cũng không chịu đi ngủ, nhất định phải chờ tới khi đoàn xe chở dưa về mới chịu thôi. Cuối cùng mẹ cô đành chịu thua, bỏ luôn ý định dỗ cô bé đi ngủ. Chỉ là đợi lâu như vậy, lại khóc nhiều, cô nhóc tự khắc mệt mỏi, bèn dựa vào lòng mẹ ngồi chờ, mí mắt cứ trĩu dần xuống rồi ngủ lúc nào không biết. Sáng hôm sau, vừa mở mắt đã sực nhớ ra hôm qua chưa đợi được dưa hấu về, cô liền nảy bụp khỏi giường, để nguyên chân trần chạy đi, vừa chạy vừa khóc. “Mẹ ơi, mẹ ơi, hôm qua con vẫn chưa được ăn dưa hấu.”
Nhưng vừa mới chạy tới gian ngoài, thấy một hàng bảy, tám trái dưa da xanh biếc nằm lăn lóc dưới đất bên chân tường gạch đỏ tươi là cô bé nín ngay. Rốt cuộc, dưa hấu cũng về tới nhà rồi.
Mỗi ngày sau bữa trưa, mẹ cô lại bổ một quả dưa hấu: một nửa ăn buổi trưa, nửa kia để tối ăn. Vì nhà không có tủ lạnh, dưa hấu bổ ra phải ăn hết ngay trong ngày, nếu không sẽ hỏng mất nên Tần Chiêu Chiêu rất thích chí vì cô bé có thể ăn tới sướng bụng thì thôi.
Nhưng những món như bánh quy đào giòn hay bánh Trung thu hoặc các loại hoa quả như lê, táo lại giữ được khá lâu nên mẹ cô sẽ cất hết đi, không để cho cô bé được ăn tới no nê, thỏa thích. Thỉnh thoảng mẹ mới lấy cho cô một miếng, còn nói mấy món đồ ngon thì nên đẻ dành mới ăn được lâu. Cô bé nghe vậy cũng chẳng hiểu gì, trong lòng ấm ức, cảm thấy sao mẹ mình hẹp hòi quá.
Khi đó, Tần Chiêu Chiêu cũng chưa nhận ra rằng, tuy mẹ chẳng bao giờ để cô được ăn thỏa thích, nhưng những đồ ăn ngon như vậy hầu như chẳng bao giờ ba mẹ động tới, cuối cùng có bao nhiêu đều chui cả vào bụng cô.
Lúc ấy, cô bé chỉ cảm thấy chưa thỏa mãn, còn tham ăn tới mức phải đi lấy trộm. Có lần nhà máy chia táo cho công nhân, mỗi người được một thùng, vậy là ba mẹ được hai thùng mang về. Mẹ cô khui cả hai thùng táo, cẩn thận lựa những quả sứt sẹo hay bị sâu đục ra ăn trước rồi xếp hết những quả ngon lành vào trong một chiếc chậu lớn, cất tận trên nóc tủ ba gian. Để như vậy thoáng khí hơn cất trong thùng giấy, đồ ăn sẽ lâu hỏng hơn.
Tần mẹ chắc mẩm tủ cao như vậy chỉ có người lớn mới với được, Tần Chiêu Chiêu bé nhỏ tuyệt đối không thể nào với tới. Nhưng mẹ cô lại quên mất con gái mình la một con sâu háu ăn, một khi đã dính tới đồ ăn thì đầu óc cô sẽ vo cùng nhanh nhạy, nghĩ ngay ra cách kê thêm một chiếc ghế đẩu nhỏ trên chiếc ghế tựa cao rồi trèo lên đó để trộm táo. Đến khi mẹ cô phát hiện ra thì chậu táo đã vơi non nửa.
Vì chuyện này mà ba nổi giận, quất cho cô bé vài cái vào mông, khiến cho cô bé khóc ầm ĩ một hồi. Từ khi bị đánh, cô bé ngoan ngoãn hơn, không dám động lòng trộm thêm thứ gì nữa.
Số lần nhà máy phát đồ ăn dù sao cũng có hạn, cả năm tính đi tính lại cũng chỉ được vài lần, hơn nữa đồ ăn lại luôn bị mẹ “cất giữ nghiêm ngặt” nên những lúc bình thường, con mèo tham ăn Chiêu Chiêu sẽ phải tự nghĩ cách kiếm được món này món kia.
Mấy quầy tạp hóa trong nhà máy cũng có bán những món đồ ăn vặt thật ngon mắt, nhưng trong túi không có tiền thì chỉ có hẻ ngồi nhìn chứ làm sao ăn được. Tìm ba mẹ xin tiền mua quà vặt vô cùng khó khăn, mười lần vòi vĩnh may ra mới được một lần. Tần Chiêu Chiêu liền dấu cái miệng nhỏ xíu càu nhàu với mẹ: “Mẹ à, vì sao con không được lĩnh lương vậy? Có lương rồi con sẽ không cần tìm ba mẹ xin tiền nữa.”
Mẹ cô nghe vậy, cười không ngớt. “Con muốn được lĩnh lương sao? Vậy phải chờ lúc nào con lớn, đi làm mới được.”
“Bao giờ con mới lớn nhỉ?”
Ba cô liền trêu con gái: “Mỗi ngày ăn thêm hai bát cơm, đảm bảo con sẽ lớn nhanh.”
Tần Chiêu Chiêu ngây thơ tin là thật, ngày nào cũng cố gắng ăn thật nhiều, no căng bụng. Nhưng ăn nhiều như vậy mà hiệu quả chẳng thấy đâu, vẫn chỉ là cô bé nhỏ xíu, cô rất bất mãn. “Con ăn bao nhiêu cơm như thế, ăn lâu ơi là lâu, sao chẳng thấy lớn thêm vậy, thật chẳng hay ho gì.”
Chuyện lớn nhanh xem chừng rất xa vời, muốn được lĩnh lương nhiều cũng không thể ngày một ngày hai, Tần Chiêu Chiêu chỉ còn cách là thường xuyên tìm cớ vòi vĩnh ba mẹ tiền mua đồ ăn, tất nhiên chuyện này vô cùng khó khăn. Ngoài ra, cũng có những món đồ ăn vặt không mất tiền, ví dụ như kẹo leng keng.
Kẹo leng keng không cần mua bằng tiền, có thể đổi bằng đồ phế liệu hay đồ bỏ như vỏ tuýp kem đánh răng dùng hết, quần áo thủng, giày rách, lá sắt vụn hay dây thép nhỏ. Ông lão vẫn hay gánh gánh hàng kẹo leng keng đi hết nhà này sang nhà kia luôn là người được đám con nít trong khu hoan nghênh nhất, mỗi lần vừa nghe thấy tiếng rao “Kẹo leng keng, kẹo leng keng đây!” là lũ trẻ con lại ùa về phía ông như bầy én nhỏ.
Kẹo leng keng là một khối kẹo tròn, lớn bằng mặt thớt, bên ngoài phủ một lớp đường kết tinh trắng muốt như bột phấn, bên trong vàng ruộm, óng ả như lúa mạch chín. Khối kẹo giòn và rất cứng, ông già bán kẹo phải cùng một lưỡi đục và một cây búa nhỏ ghè khối kẹo lớn thành từng viên nhỏ giống người ta đẽo đá; búa chạm lưỡi đục tạo nên những tiếng leng keng nên mới có tên là kẹo leng keng. Viên kẹo cứng đơ nhưng vừa ngấm nước bọt là sẽ nhanh chóng mềm ra, cắn một miếng là có thể kéo ra thành sợi vừa nhỏ vừa dài, mùi vị vô cùng thơm ngon, ngọt ngào nhưng dính răng không gì bằng. Người lớn không thích ăn món này nhưng trẻ nhỏ thì cực kỳ ưa thích.
Nhưng thích thì thích vậy chứ cơ hội đổi được kẹo để ăn không nhiều. Gánh kẹo leng keng của ông lão cơ hồ ngày nào cũng gánh qua khu tập thể nhưng vỏ kem đánh r