Mái hiên cửa hàng đối diện treo đầy đèn màu, các nam thanh nữ tú mặc quần áo mùa đông so vai thở ra từng cột khói trắng. Họ qua lại dập dìu, trên gương mặt đượm vẻ âu lo lẫn vui sướng mà chỉ người thành thị vào những ngày Tết mới có. Cửa hàng vải nội thất treo chiếc đèn lồng lớn thông báo khuyến mãi nhân dịp năm mới. Năm mới, lại sắp sửa đến.
Phương Đăng tiễn vị khách cuối cùng khỏi cửa, quay vào nói với cô nhân viên đang đứng trước quầy thanh toán kiểm kê hàng: “Hôm nay chị về sớm một chút đi, năm nào đến tầm này cũng bắt chị ở lại trực, ai không biết lại tưởng tôi ngặt nghèo.”
“Dù có về sớm cũng chẳng biết làm gì.” Người phụ nữ cắm cúi xem sổ sách cất tiếng.
“Còn cháu gái chị đâu, không phải trông ư?”
“Trường nội trú có tổ chức đi chơi công viên nhân Tết Tây, mấy đứa trẻ con thích đến chỗ náo nhiệt hơn.”
“Mà chị đừng nên để bản thân quá cô quạnh.” Phương Đăng thở dài não nuột, tiện tay đón lấy vật trong tay người kia, “Đóng cửa rồi! Ngày mai cửa hàng nghỉ Tết một hôm, muốn làm gì thì làm cho thỏa thích. Tuổi thanh xuân dù không đáng tiền, thì cũng nên phung phí vào những việc có ý nghĩa một chút.”
Cô gái tuổi tác xấp xỉ Phương Đăng bèn cười, vào trong thay quần áo, tỏ vẻ thế nào cũng được. Nhớ lại sáu năm trước, cửa hàng mới mở chưa bao lâu, có một cô gái trẻ măng, nói năng dịu dàng, vừa khéo may vá vừa xinh xẻo đến ứng tuyển. Đúng vào lúc tiệm cần người, Phương Đăng liền hỏi cô cần thù lao thế nào mới chịu ở lại giúp. Cô gái kia chẳng đưa ra một cái giá nào, cứ lặng im một lúc rồi thốt nhiên nói: “Tôi từng đi tù, giờ chỉ muốn sống an phận, chị cần tôi là quý rồi, chỉ cần đủ dùng nhu cầu thiết yếu thôi, bao nhiêu tiền cũng được.”
Phương Đăng nghe nói khá là kinh ngạc. Cô khó mà nghĩ rằng một người phụ nữ trẻ trung, dịu dàng hướng nội, yếu mềm đến độ gió thổi bay mất thế kia lại từng là một tội phạm. Nói như vậy, chắc trước đây cô ấy đã bị không ít nơi từ chối. Cũng phải, người làm ăn chân chính, ai chẳng muốn quân nhà mình là người đàng hoàng trong sạch?
Vậy mà chỉ sau chốc lát do dự, cô đã nhận cô gái ấy. Có lẽ rằng mới hỏi sơ qua chuyện quá khứ, cô nhìn ra ngay trong ánh mắt người kia có một thứ gì thân thuộc. Phương Đăng cũng trải qua một tuổi thanh xuân khác với đa số mọi người, nên đối với thuở thiếu thời tàn khốc và cuồng điên của người kia, đối với việc định đoạt trắng đen, sai đúng, cô có cách nghĩ của riêng mình. Thêm nữa, cô rất tin vào mắt nhìn người của bản thân.
Cứ thế, cô gái tên Tạ Cát Niên kia ở lại cửa hàng vải nội thất của Phương Đăng chớp mắt đã sáu năm. Đôi khi Phương Đăng cảm thấy Cát Niên mới là bà chủ chứ không phải mình, cô ta tật tâm tật lực vì cửa tiệm hơn cả mình. Ban đầu khai trương cửa hàng này, chỉ vì Phương Đăng muốn tìm một nơi ký thác, nếu không nhờ Cát Niên dốc lòng dốc sức, chắc gì tiệm đã kinh doanh khấm khá như ngày hôm nay. Mỗi dịp lễ tết, các nhân viên khác đều nghĩ cả, chỉ có Cát Niên và cô bám trụ lại cửa hàng.
Đóng cửa hàng về tới nhà, đã gần chín giờ tối. Nơi ở hiện tại của Phương Đăng cũng có một cái gác xép nho nhỏ, mặc dù không hoàn toàn giống với nơi ở trước kia trên đảo. Một trong những lý do quan trọng khiến cô chọn căn nhà này, là vì cánh cửa sổ nhìn ra biển. Đứng trước đó, cô sẽ nhìn thấy đảo Qua Âm ở phía xa. Đặc biệt vào ban đêm, hồ như cô có thể tự tưởng tượng mà chỉ ra, đâu là bến tàu, đâu là giáo đường, đâu là cô nhi viện, đâu là nhà họ Phó… Ánh sáng từ ba công trình trước có lẽ đều là thực, duy nhà họ Phó chỉ là tưởng tượng. Đèn ở nơi ấy đã nhiều năm rồi không được ai thắp lên.
Phương Đăng đặt chìa khóa xuống bước lên gác xép, chỉ mới tới lưng chừng cầu thang đã nhìn thấy phía trên tỏa ra ánh đèn. Cây chuối tây trước cửa sổ ướt đẫm, như vừa được ai tưới tắm. Cô đưa ngón tay ra đón một giọt nước lăn xuống từ phiến lá, ngoảnh ra sau, Phó Kính Thù đã đứng ở cửa nhà vệ sinh tự lúc nào, tay cầm chiếc bình tưới cây.
“Em ấy à, bẩm sinh đã không có gen trồng hoa. Anh cứ tưởng cây chuối tây này được chăm sóc tốt lắm.” Hắn đứng bên Phương Đăng, lại tưới thêm một chút nước vào mấy tán lá, rồi dùng tay hái xuống hai phiến lá hơi cuốn lại, “Em xem này, mấy cái vân màu vàng đứt quãng trên lá là triệu chứng bị bệnh, nếu không hái đi ngay, cả cái cây sẽ chết khô.”
Một cách vô cùng tự nhiên, hắn cúi xuống nhỏ nhẹ bên tai cô, như thể sáng nay hai người vừa tạm biệt ở cửa, kết thúc một ngày làm việc, lại cùng nhau chăm sóc cây cảnh trong nhà.
Phương Đăng nói: “Anh không nhớ cái cây này do anh trồng ư. Nó có ốm đau quặt quẹo một tí, anh mới không quên.”
Cô chẳng rõ chậu hoa liệu có nhung nhớ chủ nhân. Mai là mùng một Tết Tây, đã tròn một năm họ không gặp mặt. Khi vừa rời đi, Phó Thất chỉ có thể hứa với cô mỗi năm trở về cùng cô đón Giao thừa một lần. Cả hai người đều không thể quên cái đêm tống cựu nghênh tân tăm tối vô biên của mười ba năm trước, họ bạt mạng trốn thoát khỏi cái nhà xác bỏ hoang đã giam giữ hắn suốt một ngày một đêm, tìm về chốn phố xá ồn ào, vội vã và tham lam hít hà chút ấm áp vào tim. Cái Tết ấy, có người mất, có người như sống lại lần thứ hai. Cũng chính cái Tết ấy, chúng nhận ra mình chỉ có thể dựa vào người kia mà tiếp tục tồn tại.
Năm nào cũng thế, ít nhất trong thời gian này, họ ở bên nhau. Đó là điều mà sau rất nhiều năm, hắn vẫn làm vì cô.
Khi vừa tới Malaysia, mọi chuyện với Phó Kính Thù không mấy thuận lợi. Dù trên danh nghĩa là về với bề trên của Phòng Ba, nhưng bà Trịnh rõ ràng không phải một người bà đôn hậu. Bà nhận “đứa cháu” này, là quyết định của lý trí, còn trên thực tế hai người đã làm “người dưng” suốt mười bảy năm, đột nhiên phải đối xử như người thân trong gia đình đâu có dễ dàng.
Phó Kính Thù cũng hiểu rõ điểm này, tất cả những gì hắn có thể làm được, là hoàn thành mọi việc một cách trọn vẹn nhất, hắn không ngừng rèn luyện để bản thân thêm phần ưu tú, nỗ lực chứng tỏ mình với bà Trịnh, tìm mọi cách khiến bà vui. Song, hắn làm quá tốt, lại khiến bà Trịnh buồn lòng. Bà sẽ nhớ về đứa con trai đã chết Phó Duy Tín, nghĩ đến việc người kế thừa con mình lại là một “đứa cháu” chẳng có quan hệ huyết thống thân thiết. Dĩ nhiên, bà còn nghĩ đến cái “đứa cháu” kia là hậu nhân của đức lang quân và Tiểu Xuân cô nương. Tỷ dụ hành vi của hắn nhất thời không khiến bà vừa lòng, thì chuyện ấy chẳng đáng bàn, dẫu gì từ nhỏ hắn không được bà dạy dỗ, đã thế lại còn trộn lẫn nòi giống tầm thường, bà chẳng bận tâm làm gì.
Bà Trịnh vốn trọng thể diện, có những thứ bà không tự nhiên mà nói thẳng ra, cho dù trong lòng không vui, bên ngoài cũng cứ như không. Có điều những người khác trong nhà mắt ai cũng sáng quắc. Trong biệt thự lớn của họ Phó tại Kuala Lumpur, ngoại trừ bà Trịnh và gia đình con gái con rể, còn có hai cậu em họ ngoại của bà cùng bảy tám người làm. Đói với một kẻ mới đến, họ đối xử nồng nhạt thân sơ ra sao, y hệt như mấy bộ phim mọi người thường xem.
“Cô” của Phó Kính Thù, Phó Duy Mẫn, là một người trực tính, trong lòng nghĩ gì viết cả lên mặt, ngay từ đầu cô ta đã không mấy tán thành mẹ mình đón một đứa trẻ cầu bất cầu bơ về nhà, cho nên cô ta không mấy thích Phó Kính Thù, điều này ai cũng biết, dù sao hãy còn quang minh chính đại. Chồng cô ta lại cao minh hơn nhiều, ngoài mặt cười nói, nhưng đâm sau lưng người ta lúc nào không hay, sơ ý với người đàn ông này là nguy hiểm đến tính mạng.
Hai “ông trẻ”, một người thời thanh niên làm ăn thất bát, bất đắc dĩ cả nhà già trẻ phải đến ăn chực chị gái, làm gì cũng phải để ý sắc mặt bà Trịnh, do đó chẳng tốt mà cũng chẳng hại Phó Kính Thù; một ông ế vợ, cả ngày vui chơi bài bạc, là một lão già ẩm ương, ai cho lão tiền thì người ấy là thánh, còn hạng trẻ ranh chẳng thể làm lợi gì dĩ nhiên lão chẳng coi vào đâu. Các người làm quá nửa là dân bản địa, ngoài mặt tuy không dám tỏ thái độ, nhưng sau lưng tám chuyện trên giời dưới biển, chẳng có ai thật lòng coi hắn là chủ.
Phó Kính Thù thâm nhập vào môi trường ấy, mới cảm nhận sâu sắc vì sao cha mình hoàn thành được giấc mộng nhận tổ quy tông lại càng âu sầu kém vui, cuối cùng ra đi trong buồn thảm. Nếu coi việc bị bỏ rơi ở nhà tổ giống như một mình phải đi giữa nơi hoang vu vắng lặng, thì trở về bên “người thân”, lại giống như lạc vào vùng đất lạ, mỗi giờ mỗi phút đều có người nhắc nhở, mày là kẻ lạc loài, mày không thuộc về nơi đây.
Nhưng rốt cuộc, Phó Kính Thù không phải là Phó Duy Nhẫn. Hắn đối đãi với bà Trịnh nhất mực tận tâm, ngoài ra trước ánh mắt lạnh nhạt của những người khác, hắn chỉ cười bỏ qua, từ đầu chí cuối chưa từng giận hay phản khác, biết tiến thoái, quan trọng hơn là không cho họ có cơ hội nắm được điểm yếu của mình. Lâu dần, những người kia không chiếm được phần hơn, cũng chẳng có cách nào, đành buông xuôi mọi sự, đến đâu thì đến. Dù không thể thân thiết như người một nhà, nhưng ít nhiều trong không ấm mà ngoài phải êm.
Bà Trịnh không còn mạnh khỏe như xưa, nhưng lòng vẫn sáng hơn ai hết. Bà ngấm ngầm quan sát nhất cử nhất động của hắn, dù vẫn cảm thấy hắn không mấy chân thành, nhưng không hề phủ nhận quyết định của mình là sáng suốt. Thích hay không thích “đứa cháu” này là một chuyện, nhưng đích thị đây là đứa trẻ thông minh, thậm chí còn giống ông nội nó hơn là giống cha mẹ.
Sống tại Malaysia hai năm, Phó Kính Thù nghe lời bà Trịnh đi Anh, vào học tại trường mà Phó Duy Tín đã từng học. Hai mươi ba tuổi, cầm trong tay tấm bằng theo đúng nguyện vọng bà Trịnh, hắn không về Malaysia ngay mà đến Hồng Kông, làm việc thêm hai năm. Tận khi đã hai nhăm tuổi hắn mới được triệu về bên cạnh bà Trịnh, chính thức tiếp cận với công việc làm ăn của gia tộc.
Khi nhúng tay vào công việc, Phó Kính Thù mới hiểu sâu sắc tình hình hiện nay của nhà họ Phó. Từ khi dọn đến Malaysia, nhà họ Phó luôn là một trong những đại gia tiếng tăm nhất, nhưng suy cho cùng tất cả đều chỉ là núp dưới hào quang của quá khứ. Họ Phó định cư đã lâu, nền móng vững vàng, danh tiếng hiển hách, nhưng tính về tài sản khó mà so sánh được với các hào phú mới nổi. Hiện nay sản nghiệp chủ yếu của nhà họ Phó tập trung ở lĩnh vực nhà ở và bất động sản, ngoài ra còn có vài xưởng gia công lớn cùng vườn thực vật dưới danh nghĩa của “Tập đoàn Phú Niên”, cổ phần rải rác tại mấy công ty lớn ở Malaysia. Để liệt vào hàng tỷ phú thì chưa đến, chỉ là một gia tộc đã từng có quá khứ vinh hiển mà thôi.
Từ khi chồng mất, bà Trịnh luôn một mình gánh vác mọi việc, giờ đây tuổi tác đã cao, bên cạnh không có ai thực sự là trợ thủ đắc lực, người già sức lực có hạn, phương pháp đầu tư cũng dần trở nên bảo thủ. Việc duy trì cơ nghiệp đã khó, nói gì đến mở mang. Trước đây bà có em trai cả và con rể giúp sức, Phó Kính Thù thành niên rồi, thi thoảng bà cũng nghe một vài ý kiến của hắn, nhưng chỉ lấy làm tham khảo. Đến khi Phó Kính Thù chính thức quay về, tình trạng kinh doanh buồn bã này mới xuất hiện những chuyển biến rõ rệt.
Vừa tiếp quản công việc không lâu, Phó Kính Thù đã có vài động thái lớn, mạnh dạn để đạt chủ trương của mình. Hai vợ chồng người cô cùng ông trẻ rõ ràng tỏ ra nghi ngờ, nhất cử nhất động của hắn đều vô cùng áp lực. Bà Trịnh mặc cho bọn họ tranh chấp, sau khi cuộc chiến giằng dai không dứt xảy ra được một thời gian, bà mới nói: “Để người trẻ thử sức đi, thất bại coi như