àn bà họ Trương đó lại dẫn theo một đám người, tìm đến tận nhà cụ ngoại tôi ở An Giang, đòi cụ ngoại tôi trả lại vợ cho hắn, nếu không sẽ đến nha môn tố cáo Tô gia. Cụ ngoại tôi, một người đàn bà chân yếu tay mềm, tính cách nhu nhược, lại còn mù chữ, giờ không chỉ mất đi người chồng, mà còn bị chồng của người đàn bà đã cướp chồng mình đe dọa, bà chỉ biết nhỏ những giọt nước mắt khóc thương cho thân phận mình. Cuối cùng ở trong gia tộc vẫn còn một vị trưởng bối làm quan trong nha môn đã giúp bà đuổi đám vô lại ấy đi.
Giờ đây chồng đã trốn đi cùng người đàn bà khác, bỏ lại cho bà cả một gia đình nghèo rớt mồng tơi, nghèo xơ nghèo xác, đến ba bữa cơm cũng không đủ no. Ở đoạn trên khi tôi kể về việc cụ ngoại treo cổ tự vẫn trong phòng ngủ chính là ở giai đoạn này. Ba đứa con nhỏ, người con lớn nhất là bà ngoại tôi, lúc này mới chín tuổi, đã phải vừa đi ra ngoài phụ giúp mẹ giặt quần áo cho người ta, vừa phải thay mẹ chăm sóc hai em, một trai một gái. Cụ ngoại tôi đã phải ngậm đắng nuốt cay như vậy để cáng đáng gia đình sống qua ngày. Cứ tưởng rằng như vậy đã được yên, nào ngờ một ngày cụ bất ngờ nhận được một bức thư, trong đó là tờ “giấy từ hôn” của ông cụ ngoại gửi về.
Cái gọi là “giấy từ hôn” ấy thực ra là gì? Đó chính là một trong những luật hôn nhân cổ hủ và hoang đường nhất của đất nước Trung Quốc ngày xưa: Trong một cặp vợ chồng, chỉ cần người chồng bằng lòng và có kinh tế, thì người đó có thể cưới năm thê bảy thiếp là chuyện hoàn toàn hợp pháp; và cũng chỉ cần người chồng này đưa ra bất kể một nguyên nhân hay lí do gì, hoặc chẳng cần có lí do gì cả, anh ta không muốn tiếp tục sống với người vợ hoặc người thiếp nào đó của mình thì có thể tùy ý viết trên giấy trắng mực đen rằng mình quyết định cắt đứt mọi quan hệ với người đó, tờ giấy này gọi là “Giấy từ hôn”. Anh ta chỉ việc gửi tờ giấy này cho người phụ nữ đó, thì lập tức lại được trở lại là người tự do không có ràng buộc gì, cũng không cần phải đến tòa án, không cần mời luật sư, không cần phải đóng góp tiền phụ cấp, không cần phải gánh vác bất kỳ một trách nhiệm gì; Còn người phụ nữ đáng thương, khi nhận được tờ “giấy từ hôn” đó, lập tức trở thành người vợ “hạ đường”[1], đại đa số đều bị đuổi quay trở về nhà mẹ đẻ, từ đó trở đi, không còn dám ngẩng mặt lên nhìn hàng xóm nữa, sống một cuộc đời thừa vô cùng thê lương buồn bã.
[1] Người vợ không còn ở trong chính phòng nữa.
Cụ ngoại tôi đã nhận được tờ “giấy từ hôn” như vậy. Nhưng nếu như chỉ là cụ một mình dẫn theo ba người con ra đi vùng vẫy khốn khổ kiếm sống qua ngày thì cũng còn là tốt, thế mà về sau còn phát sinh ra một việc mà việc ấy mới gọi là không thể chấp nhận được.
Sau vài năm, ông cụ ngoại và người đàn bà họ Trương đã cùng ông chạy trốn sinh được hai người con một trai một gái, có thể là do gặp phải sự quả báo của trời đất, mà vào một buổi chiều hoàng hôn, khi cả bốn người trong gia đình đang ở bên sông Trường Giang chuẩn bị xuống thuyền qua sông, có lẽ do sắc trời đã tối, lại thêm gió ở bên sông nổi lên rất lớn, người đàn bà đó không biết vì sao lại trượt chân rơi xuống dòng sông nước xiết, bị sóng nước cuồn cuộn nhấn chìm, vĩnh viễn không thấy nhân ảnh.
Bà ấy đã ra đi như vậy, để lại trên đời hai đứa con thơ dại. Ông cụ ngoại tôi lúc đó vẫn còn can đảm nhờ một người quen đưa hai đứa trẻ quay về quê nhà ở Giang An, bảo người vợ đã bị ông ta chối bỏ giữ lại và chăm sóc chúng. Nhưng hoang đường hơn cả là bà cụ ngoại tôi chẳng nói nửa lời, chỉ lặng lẽ gật đầu đón nhận hai đứa trẻ thơ. Tất cả mọi người trong họ hàng làng xóm đều cho rằng cụ ngoại tôi nhất định đã bị điên, bởi chỉ có điên mới làm như vậy. Bọn họ cho rằng bà làm như vậy là bởi muốn người đàn ông trước đây đã từ bỏ mình nhìn thấy tấm lòng nhân ái của bà mà hồi tâm chuyển ý.
Ba đứa con của mình, cộng thêm hai đứa con của người khác, một người phụ nữ nhỏ bé yếu đuối chỉ dựa vào việc giặt quần áo cho người khác kiếm sống, cùng lúc phải nuôi đến sáu miệng ăn, mà lúc này đang là ở giữa thời kỳ tám năm kháng chiến chống Nhật, máy bay của người Nhật đã oanh tạc đến tận thị trấn nhỏ bé của vùng đất Giang An, Tứ Xuyên này, người dân nơi đây cả ngày phải luôn trong tư thế sẵn sàng để trốn tránh sự tập kích của máy bay, người người không thể sống được, trăm họ lầm than, cuộc sống cơ cực bần hàn, thử hỏi trong hoàn cảnh như vậy thì có thể tìm được ở đâu ra nhiều quần áo mà giặt?
Còn ông cụ ngoại, sau khi bỏ lại hai đứa con vốn là thứ gây phiền toái rườm rà cho mình cho vợ cũ, liền một mình vượt biển đến Thượng Hải, muốn nhân cơ hội đất nước đang loạn lạc tìm một sự đổi thay nào đó. Dựa vào gia thế và tài văn chương của mình, cụ đã bằng mọi cách tìm được một chức vị không đến nỗi nào ở trong Bộ Tư lệnh cảnh bị của Quốc dân đảng ở Thượng Hải. Sau này còn liên tiếp được đề bạt thăng quan tiến chức, con người trở nên hớn hở đắc ý. Khi mới bắt đầu đến Thượng Hải, cụ còn thỉnh thoảng gửi tiền tiêu vặt về cho cụ bà ở quê nhà. Về sau, cụ lại yêu một người phụ nữ ở Giang Nam, rồi rất nhanh chóng cưới người ấy làm vợ. Từ đó đoạn tuyệt luôn tất cả liên hệ với gia đình ở quê. Bà cụ ngoại sau khi nhận trọng trách nặng nề nuôi hai đứa con riêng của chồng, đổi lại không phải là việc hồi tâm chuyển ý của ông cụ ngoại, mà là giúp ông giảm bớt những khó khăn phiền toái, để ông rảnh rang sống cuộc sống phong lưu ung dung tự tại ở nơi khác.
Cuối cùng vào năm 1949, cách mạng Trung Quốc thắng lợi, mở ra một đất nước Trung Quốc mới, Cộng sản đảng thay thế cho Quốc dân đảng, một chính quyền mới thay thế cho một chính quyền cũ. Những người làm quan lớn trong Quốc dân đảng trước đây, kẻ thì bị xử bắn, kẻ thì bị bắt làm tù binh. Ông cụ ngoại của tôi may cũng chỉ là một viên quan nhỏ của Quốc dân đảng nên không bị quy vào hai hình phạt trên, nhưng cụ vẫn bị xem là một phần tử phản động nên đã bị đuổi về quê nhà theo nguyên quán là ở Giang An, Tứ Xuyên, trở thành một kẻ sa cơ thất thế. Đương nhiên lúc này, người vợ người Giang Nam mà cụ đã cưới ở Thượng Hải không chút do dự đã dứt tình đoạn tuyệt với cụ, lập tức bỏ đi. Sau khi cụ về đến quê, liền quay về nhà đau khổ cầu xin bà cụ ngoại tha thứ, thật là thảm thương. Lúc này mấy người con của họ đã lớn, tất cả đều thống nhất ngăn cản không cho bà cụ ngoại tha thứ cho cụ, không cho bà mở cửa đón người đàn ông vong ân bội nghĩa ấy vào nhà. Nhưng bà cụ ngoại đã nói với các con của mình rằng: “Tuy ông ta không ra gì, nhưng ông ấy vẫn là cha của các con!” Ai dà, cuối cùng người đàn ông mà họ gọi là cha kia, do trải qua những biến động chính trị lịch sử, bị đày về nơi xa xôi hẻo lánh, đất đai khô cằn sinh sống. Trong một buổi chiều tà, người đàn ông ấy đột nhiên rơi xuống một cái hố bên bờ ruộng, làm cách nào cũng không thể bò lên được, cũng coi như là kết thúc một đời hoang đường phiêu bạt của ông ấy.