cung đã tắt, bên tai lại vẳng lên những lời thuộc hạ bẩm báo về quá khứ của Oanh Ca, cô được nuôi lớn, học giết người, sống đến hai mươi tuổi trong ánh đao ánh kiếm, bị thương, bị Dung Tầm vứt bỏ, cuối cùng bị coi là vật thế thân vào cung thay cô em thế nào, từng đoạn trường thuộc hạ đều nói rõ.
Chàng không sành đánh giá vẻ đẹp của phụ nữ, nhưng cảm thấy khi Oanh Ca đá cầu dưới ánh đèn vừa rồi nhẹ nhàng như con bướm tím chao lượn, duyên dáng như tiên nữ du xuân. Dặn dò tiểu thái giám mấy câu, chàng trở bước, theo đường cũ quay về, gió thu hiu nhẹ, hải đường chớm trổ hoa. Chàng thầm nghĩ Dung Tầm đã ngốc khi vứt bỏ cô, nhưng đưa cô vào cung hóa ra lại tác thành cho mình, đây quả là duyên phận.
Không phải vừa gặp đã yêu, từ thương xót đến yêu chỉ vẻn vẹn ba ngày, có thể người đời sẽ nghĩ ba ngày quá ngắn, nhưng có thể người ta chưa hẳn biết, đối với mối tình định mệnh, một cái nhìn cũng là dài, huống hồ ba ngày, huống hồ nhiều cái nhìn như vậy, chàng xót xa yêu.
Chuyện sau đó như đã nhìn thấy trong giấc mơ của Oanh Ca. Dung Viên hỏi cô có biết tình yêu của bậc quân vương là gì, cô trả lời, tình yêu của quân vương rộng lớn như hải hà, ân trạch ban khắp nơi, chàng không tán thành, như vậy sao có thể gọi là yêu, đó chỉ là bổn phận của quân vương đối với muôn dân.
Chàng không giống những bậc quân vương chỉ ban ơn mưa móc. Ở ngôi cao thường lạnh, hiểu cô, chàng muốn có cô bên mình, vị trí đó ba người quá chật, một người quá cô đơn, chàng chỉ muốn con người duy nhất đó, con người vừa yếu đuối vừa kiên cường, vừa âm thầm nhẫn nhịn, vừa gan góc đương đầu, từng là sát thủ, nhầm lẫn vấp váp thế nào cuối cùng trở thành người của chàng.
Chàng biết cô muốn bỏ đi, tìm mọi cách giữ cô lại, ngoài tự do những gì cô muốn chàng đều có thể cho cô. Chàng cũng biết, con người cô đã phủ lớp băng dày, cho dù được tự do, cô cũng không thể sung sướng, quá khứ đớn đau khiến cô ngay cả khi khóc cũng không biết khóc thật lòng.
Chàng muốn trân trọng cô, muốn cô sung sướng vô lo, giống mọi cô gái nhỏ thơ ngây không bận tâm thế sự, để chàng nâng niu trong lòng bàn tay.
Chàng đã tính xong tất cả, nhưng lại sơ suất quên một điều, đó là số mệnh. Trong kế hoạch của chàng, cô sẽ chung sống lâu dài bên chàng, chàng sẽ bảo vệ cô, giống như bảo vệ mỗi tấc đất của lục địa dưới chân, khi trăm tuổi họ sẽ nằm trong một chiếc quan tài, dẫu trong lăng tẩm lạnh lẽo, hai người cũng không cô đơn.
Nhưng khi số mệnh đến chàng mới thấy cuộc đời mình không dài như đã nghĩ, nói chi đến trăm năm.
Dung Viên sinh thiếu tháng, lúc nhỏ nhiều bệnh tật, phụ thân chàng đã mời danh y khắp nơi, đa phần dự đoán tiểu công tử nếu được chăm sóc chu đáo có thể sống qua tuổi mười tám, nếu muốn sống lâu hơn, chỉ có cầu xin ông trời.
Lão Trịnh hầu vương không còn cách nào khác, dứt khoát đưa chàng đi học đao thuật, mong qua đó có thể bồi dưỡng tăng cường sức khỏe. Không biết cơ duyên thế nào, ở chỗ sư phụ dạy đao thuật, chàng lại gặp thánh dược Bách Lý Việt người vốn thoắt ẩn thoắt hiện, không biết bằng cách nào vị thánh dược đó đã chữa khỏi mọi bệnh tật hồi nhỏ của chàng, từ đó cả Trịnh vương thất tôn Bách Lý Việt là thượng khách.
Từ khi lãoTrịnh hầu qua đời, tám năm chàng không gặp lại Bách Lý Việt, lần gặp lại chính là vào dịp cuối năm khi Oanh Ca được phong Tử Nguyệt phu nhân. Bạn vong niên tái ngộ, câu đầu tiên Bách Lý Việt sắc mặt nghiêm trọng, hỏi: “Một năm trở lại đây bệ hạ có bị trúng độc gì không?”.
Đến nước này chàng mới hiểu, chất độc chàng bị ngấm từ móng vuốt con báo gấm khi chàng chế ngự nó trong đêm trừ tịch năm trước mặc dù không phải là chất kịch độc, nhưng với riêng chàng lại là đòn chí mạng. Thì ra, năm xưa Bách Lý Việt trị bệnh cho chàng dùng rất nhiều độc vật để luyện thuốc, vạn vật tương sinh tương khắc, một khi đã dùng những thuốc đó, cả đời tuyệt đối không thể chạm đến ba cây thuốc là, tử quỳ vân anh, tương mộ cúc, đông hoặc thảo. Nghe đồn trên đất Cửu Châu này đông hoặc thảo đã tuyệt diệt, người thiên hạ không biết hình dạng thế nào, tính chất ra sao, nhưng chất độc bôi vào vuốt con báo lại chứa không ít đông hoặc thảo.
Ngự Cẩm viên lạnh giá, mái hiên cong của Dung Nguyệt cung thấp thoáng dưới tán cổ thụ, chàng nhìn đăm đăm về hướng đó hồi lâu, thong thả hỏi Bách Lý Việt: “Quả nhân còn sống được bao lâu?”.
“Khoảng ba tháng nữa bệ hạ bắt đầu thổ huyết, một năm sau…”.
“Một năm sau?”.
“… sẽ thổ huyết mà qua đời”.
Mặt chàng tái nhợt, giọng vẫn bình thản: “Ngay cả tiên sinh cũng bó tay sao?”.
Bách Lý Việt là thánh dược, không phải là thần. Đông hoặc thảo vào cơ thể chàng đã gần một năm, không thể hóa giải. Lần đầu tiên chàng tự dối mình, hy vọng thánh dược Bách Lý Việt chưa bao giờ nhầm lần này sẽ nhầm, chàng chẳng trúng độc đông hoặc thảo, hạ hoặc thảo nào hết, chỉ là cơ thể hư yếu sau chấn động mà thôi.
Mãi đến ba tháng sau, trong khi chàng đang phê duyệt tấu chương, bất ngờ thổ ra huyết, chàng mới tin cái gọi là số mệnh, tính chàng vốn lạnh, xưa nay hỷ nộ không thể hiện ra ngoài, đêm hôm đó chàng đã nổi cơn thịnh nộ, đập nát mọi thứ trong ngự thư phòng. Nhưng sự đã thế, đành thu xếp hậu sự.
Mười ngày sau, chàng hạ lệnh giam Oanh Ca ở núi Đình Hoa với tội khi quân để ăn năn sám hối, ngày hôm sau ra chiếu bố cáo với thiên hạ Tử Nguyệt phu nhân lâm bệnh qua đời. Bách Lý Việt chơi cờ với chàng, cầm lên một quân trắng, nói: “Đến ngày cuối, nhớ lại hôm nay, nhất định bệ hạ sẽ hối hận”.
Nhưng không còn cách nào tốt hơn, chàng nghĩ, sau khi chàng quy thiên, Oanh Ca chỉ có hai con đường, một là tuẫn táng theo chàng, hai là cô quả một mình trong thâm cung. Nếu để cô lựa chọn, với tính cách của cô nhất định Oanh Ca sẽ tự đâm vào ngực mình trước long sàng của chàng. Con người cô tưởng chừng phức tạp nhưng thực ra rất đơn giản, yêu một người là sống chết cùng nhau, còn giả sử đêm đó khi nhìn thấy cô chàng không thích cô, liệu Oanh Ca có thể sống tốt hơn?
Chàng giam cô mười năm, Đình Hoa sơn cách biệt thế gian, mười năm sau cô sẽ quên chàng, mặc dù tuổi xuân không còn, cô vẫn có thể tự do sống cuộc sống ngày xưa cô muốn. Còn việc giao giang sơn này vào tay ai, bằng cách nào, chàng sẽ tự cân nhắc.
Mấy ngày sau trong cung có tin truyền ra, Hồng Châu phu nhân có tin vui, nói là Bách Lý Việt đích thân xem mạch, chẩn đoán là con trai.
Hồng Châu phu nhân có tin vui là thật, nhưng không phải cốt nhục của chàng, đã hơn hai năm chàng không gặp Hồng Châu phu nhân, đứa trẻ đó là của phu nhân với một thị vệ thân tín của cô ta. Bách Lý Việt xem mạch chẩn đoán là đúng, chàng đích thân đưa thánh dược đến am Phương Trúc, Hồng Châu phu nhân quỳ dưới đất run lẩy bẩy, thị vệ dan díu với phu nhân bị xử tử ngay trước mặt cô ta.
Hai tin đầu trong lời đồn là thật, nhưng chẩn đoán hài nhi là trai lại đầy hồ nghi, đương nhiên cho dù Bách Lý Việt y thuật cao siêu, cũng tuyệt đối khó có thể biết đích xác hài nhi chưa thành hình rốt cuộc là trai hay gái, nhưng do chính miệng Bách Lý Việt nói ra mọi người ai cũng tin, mà như vậy là đủ. Chàng chỉ muốn quần thần đều hiểu, chàng sắp có một người nối dõi, sau khi chàng băng hà người thừa kế ngôi Trịnh hầu vương sẽ không phải là Dung Tầm, nhất là để cho Dung Tầm hiểu.
Bách Lý Việt đắn đo: “Đây vốn là đại sự của Trịnh quốc không liên quan đến hạ thần, nhưng bệ hạ đã định nhường ngôi cho Dung Tầm sao lại sắp đặt như vậy để ép ông ta soán vị cướp ngôi?”. Chàng nhấc chén trà lên, dung sắc lạnh lùng: “Nếu quả nhân có thể thọ trăm tuổi, nếu Tử Nguyệt phu nhân có thể sinh cho quả nhân người nối dõi, ông cho là Dung Tầm sẽ nhẫn nhịn đến lúc nào mới chống lại quả nhân? Dung Tầm có tài trị quốc, nhưng quá dã tâm, nuôi hắn như nuôi mãnh hổ, quả nhân từng nghĩ có đủ thời gian mài bớt móng vuốt của hắn, hôm nay…”. Chàng cau mày, hừ một tiếng, đặt chiếc chén trà trở lại bàn, “Quả nhân đã nhường ngôi cho hắn, lẽ nào lại tặng hắn cả Tử Nguyệt?”.
Đây là thâm ý của chàng. Chàng biết Dung Tầm có tình với Oanh Ca, chuyện của mười năm sau chàng đã không thể nhìn thấy, nhưng chàng biết chỉ cần hôm nay Dung Tầm bức cung chống lại chàng, sau này Dung Tầm không thể có Oanh Ca.
Bách Lý Việt ngạc nhiên: “Bệ hạ đã không muốn Tử Nguyệt phu nhân tuẫn táng, muốn phu nhân được sống, cũng nên lường trước có ngày phu nhân lấy người khác”.
Chàng nhìn phía chân trời: “Lấy ai cũng được, Dung Tầm không được”.
Lần cuối cùng gặp Oanh Ca là trên đường trường hoang vắng vào một đêm có sao. Nghe tin cô trốn khỏi Đình Hoa sơn, chàng vô cùng lo lắng, không biết cô có bị thương, lấy cớ bị bệnh, chàng hủy bỏ mấy buổi thiết triều, mang theo thị vệ vội vã rời cung. Không biết đi bao nhiêu dặm, cuối cùng nhìn thấy Oanh Ca mình đầy thương tích đứng trước mặt chàng, tay cầm đao, mặt tái nhợt, gấu váy loang lổ máu.
Chàng nghĩ, chàng nên bất chấp tất cả kéo cô vào lòng, nhưng sao có thể. Cô đau đớn hỏi chàng: “Sao thiếp có thể tin chàng như vậy, những người trong vương thất đâu có hiểu sự quý giá của nhân tâm”.
Chàng nhìn mái tóc rối tung của cô, nước mắt tràn ra từ những ngón tay đè trên mắt, từng giọt lớn lăn xuống, răng cắn chặt vào môi, chàng muốn nói câu gì, nhưng máu đã ứ trong miệng, nỗi đau của cô là vũ khí lợi hại nhất có thể đối phó với chàng. Nhưng chàng vẫn đưa cô về núi.
Nhìn bóng cô đi xa dần dưới ánh trăng, chàng muốn gọi tên cô, Oanh Ca, Oanh Ca, cái tên đó đã vang trong lòng chàng cả trăm, cả ngàn lần, nhưng chưa một lần thốt ra trước mặt cô.
“Oanh Ca”. Chàng khẽ gọi. Nhưng cô đã đi xa.
Không lâu sau, Dung Tầm quả nhiên bức cung. Trận cung biến diễn ra lặng lẽ và mau lẹ, bởi vì chàng không định kháng cự. Như lời đồn, Dung Tầm hùng hổ áp trường kiếm vào cổ chàng, khàn giọng hỏi: “Tôi trao nàng nguyên vẹn cho thúc, tại sao thúc lại giày vò nàng tan nát?”.
Còn chàng hơi ngẩng đầu, lạnh lùng: “Dù có nát, Tử Nguyệt cũng nên nát trong lòng ta”. Kiếm của Dung Tầm rung rung, ép vào cổ chàng lộ ra vệt máu nhỏ, chàng lại không để ý: “Bao nhiêu năm qua, những việc ngươi làm có hai việc khiến ta hài lòng nhất, một là trao Tử Nguyệt cho ta hai năm trước, hai là bức cung hôm nay”.
Dung Tầm nhìn chàng rất lâu, toàn thân như rã rời, lát sau cay đắng nói: “Nàng ra đi thế nào, có phải chịu đau đớn không?”.
Chàng cười nhạt: “Cho dù đau đớn, cuộc đời này còn đau đớn nào nàng không chịu được”.
Sau đó Dung Viên nhường ngôi, Dung Tầm lên ngôi. Sau khi nhường ngôi, Dung Viên lánh về dưỡng bệnh ở hành cung Đông Sơn, đó là vào tháng năm khi mùa hoa anh đào đã tàn. Tất cả đều được chép vào sử, thời đại thuộc về Trịnh Cảnh hầu đã trôi qua, để lại cho hậu thế hai trang giấy mỏng.
Năm sau, khi hoa anh đào nở tràn trên núi, cái ngày cuối cùng mà Bách Lý Việt nói cuối cùng đã đến, tôi có thể biết bởi vì máu trên dây đàn từng giọt nhỏ xuống theo ngón tay tôi, chứng tỏ cảnh đã kết thúc.
Trước mắt là suối nước nóng màu ngọc bích bốc hơi ngùn ngụt, phía sau là một rừng hoa anh đào. Đông hoặc thảo cơ hồ không giày vò Dung Viên bao nhiêu, ít nhất thần sắc vị quân vương xem ra khá tốt, chỉ có thân hình hơi tiều tụy, nhưng đây là ngày cuối cùng, khí sắc khác thường đó có lẽ là hồi quang phản chiếu.
Ánh nắng cuối cùng của ngày tàn hắt ra dệt thành dải lụa đỏ ối ở chân trời, cả rừng anh đào sau suối nước nóng sáng rực như tuyết đỏ.
Chàng lơ đãng sai tiểu đồng đằng sau: “Hôm nay ta khỏe