Đằng lại sai đào bên tường phía phải quả nhiên thấy sáu cái hũ lớn, năm hũ đựng bạc, một hũ đựng vàng.
Thiện Kế nhìn thấy nhiều vàng bạc như vậy, mắt đầy tức tối, uất hận vì không thể xông tới mà cướp lấy được. Quan họ Đằng viết một tờ chứng, giao cho Thiện Thuật. Hai mẹ con Mai Thị rập đầu bái tạ. Thiện Kế căm lắm, song cũng chỉ đành rập đầu mấy cái, miệng miễn cưỡng nói: “Đa tạ đại nhân”.
Quan họ Đằng bèn lấy hũ vàng đặt vào kiệu sai khiêng về phủ để mình hưởng.
Mẹ con Mai Thị sau khi có được mười hũ bạc đó, mua ruộng vườn làm lụng, chẳng mấy chốc trở nên giàu có. Sau Thiện Thuật lấy vợ, đẻ liền ba cậu con trai, khi lớn đều học tập thành danh.
Bán nhà chuộc bạn (Tam ngôn)
Thời Khai nguyên đời Đường, quan Tể tướng Quách Chấn có người cháu tên gọi Trọng Tường, là một chàng trai võ nghệ cao cường, vừa dũng cảm vừa mưu lược.
Năm ấy, phương Nam có loạn, Quách Chấn liền sai cháu đi theo đô đốc Lý Mông để phá địch lập công.
Bấy giờ, người đồng hương của Trọng Tường là Ngô Bảo An nghe tin bèn viết thư cho Trọng Tường muốn được đi cùng để phục vụ.
Được thư, Trọng Tường rất cảm động, vỗ án nói: “Ta mà không lo được tốt cho anh Ngô thì chẳng đáng là kẻ trượng phu!” Thế là tìm cách lo ngay cho Bảo An làm chức Quản ký trong quân ngũ.
Ngô Bảo An nhận được giấy báo, biết rằng đây là do Trọng Tường tiến cử nên rất vui mừng. Sắp xếp cho vợ và đứa con trai mới chưa đầy hai tuổi xong xuôi, lập tức đi suốt ngày đêm để tới Diên Châu. Nào hay, trời nổi mây gió bất ngờ, Bảo An đến được Diên Châu thì nghe tin quân của Lý đô đốc đã bị bại trận, Quách Trọng Tường sống chết thế nào thì chưa rõ. Thế là Bảo An ở lại, đi khắp nơi hỏi thăm tin tức của Trọng Tường.
Thì ra, Lý đô đốc dẫn quân đánh địch, không may bị rơi vào vòng vây, đô đốc tử trận, Trọng Tường cùng một số người bị bắt làm tù binh. Quân địch ham của, nói sẽ cho chuộc bọn tù binh này bằng tiền, có điều đặt giá rất cao. Khi đó, Quách Trọng Tường ở trong tay bộ tộc Ô-lô. Vì là cháu của Tể tướng nên có thể được chuộc bằng một ngàn tấm lụa. Chàng bèn tìm cách chuyển thư tới ông bác. Nghĩ tới nghĩ lui, thấy chỉ có Ngô Bảo An có thể hiểu mình, bèn viết một lá thư, khẩn thiết nói: “Biết bạn là người rất trọng nghĩa, nên xin nhờ bạn nhắn tin cho bá phụ tôi, xin người giải cứu cho tôi”.
Bảo An đang lo lắng tìm kiếm Trọng Tường, nhận được thư, mừng khôn xiết kể, lập tức đi ngay. Đường đi qua nhà, tuy rất muốn ghé thăm vợ con một chút, song vì sợ cấp bách không dám dừng chân. Từ Diên Châu tới Trường An ba nghìn dặm đường, Bảo An ruổi ngựa không ngừng, dầm sương dãi gió, trải bao khổ cực mới đến được kinh đô. Ngờ đâu khi đó Tể tướng Quách Tấn đã qua đời, cả nhà lớn bé già trẻ đều dọn về quê tất cả.
Bảo An chưng hửng, không biết làm sao. Lúc này chàng ta đã tiêu hết cả tiền, chẳng còn lấy một xu, chỉ đành bán con ngựa để quay về nhà đã, rồi sẽ tính sau.
Về đến nhà, vừa nhìn thấy vợ, chàng không ghìm được òa lên khóc rồi kể rõ sự tình cho Trương Thị nghe. Kể xong lại nói: “Mình muốn đi chuộc ông ấy, nhưng nhà mình quá nghèo, sao có gì mà chuộc, giờ làm sao đây?”
Trương Thị an ủi nói: “Tục ngữ có câu: Không gạo thì khéo mấy cũng chẳng nấu được cơm, chàng đã tận sức tận lực rồi, thôi thì đành nhờ trời mà thôi”.
Nghe nói vậy, Bảo An chỉ lắc đầu: “Hồi đó mình chỉ là đánh liều viết lá thư cho ông ấy, thế mà ông ấy đã hết sức đề bạt cho mình, nay ông ấy đem tính mạng phó thác cho mình, sao mình nhẫn tâm bỏ ông ấy được!”
Rồi thề rằng nếu không cứu được Trọng Tường về sẽ không sống tiếp nữa.
Sau đó, để có tiền chuộc người bạn chưa hề gặp mặt, Bảo An bắt đầu bán gia sản, bán cho hết sạch chỉ còn bốn vách nhà trống mà mới chỉ được 200 tấm lụa. Nhìn đống lụa chàng rơi nước mắt bảo vợ: “Chẳng phải tôi không thương mình và con, nhưng làm người phải lấy nghĩa khí làm trọng, có lẽ tôi đành phải xa vợ con ra ngoài buôn bán thôi”. Nói rồi xếp chỗ lụa đem đi, để người vợ cô đơn và đứa trẻ nhỏ dại ở lại.
Từ đấy, cứ sáng sớm ra đi tới tối mịt mới về, bôn ba khắp nơi, chẳng nề vất vả. Trên đường buôn bán, chàng ta học được cách tranh cạnh với người từng hào từng xu. Ngày ngày, chàng ta chỉ ăn cơm gạo xấu mặc áo cũ rách, được đồng nào đều tích góp để mua lụa. Mua được một tấm lại nghĩ đến mười tấm. Được mười tấm lại mong được một trăm tấm. Gom được 100 tấm bèn vội vội vàng vàng đem gửi vào kho công ở Diên Châu. Cứ thế Bảo An như bị ma ám, quên cả vợ con, ngày tính toán, đêm mộng mị, chỉ toàn là nghĩ đến chuyện Quách Trọng Tường. Gắng công gắng sức như vậy nhưng thời buổi bất yên, nên vất vả mười năm trời mà chỉ gom được 700 tấm lụa.
Mười năm trôi qua, đứa con trai đã mười một tuổi. Trương Thị thương nhớ chồng, trong lòng buồn khổ. Lại do thiếu ăn thiếu mặc tuổi nên tuy chưa nhiều mà người đã rất tiều tụy.
Một hôm, Trương Thị nghĩ bụng con trai mình đã lớn, nhà không có tiền mời thầy cho nó học, bèn quyết định đem bán mấy thứ đồ nát còn lại làm tiền lộ phí, mấy ngày sau đem con đến Diên Châu tìm chồng.
Hai mẹ con giãi gió dầm sương suốt dọc đường, nếm đủ mọi gian khổ. Đã vậy, số tiền lộ phí lại tiêu hết. Lo lắng quá, Trương Thị đành xin ăn để đi tiếp. Có mấy lần nàng toan tự tử cho chết đi, song lại không nỡ bỏ lại đứa con bé bỏng. Rồi một hôm, thật sự không chịu nổi, nàng ngồi xuống bên đường mà thảm thiết khóc lóc.
Tiếng khóc đã làm động lòng một vị quan đi qua nơi đây. Vị quan này là Dương An Cư, mới tới nhậm chức đô đốc ở Diên Châu. Nghe Trương Thị kể chuyện Ngô Bảo An bán nhà chuộc bạn, Dương đô đốc vô cùng cảm động.Thế là sai người đưa dẫn mẹ con Trương Thị, còn mình lập tức đến Diên Châu để giúp tìm tin tức Bảo An.
Mấy ngày sau, đô đốc tìm được Bảo An. Ông nói: “Thường nghe người ta nói: Cổ nhân có tình bạn sống chết với nhau, giờ gặp chuyện của ông mới tin là điều có thật! Nay vợ con ông cũng đã tới đây, hãy mau về gặp họ đi. Số lụa còn thiếu, ta sẽ giúp ông lo liệu”.
Bảo An nghe rồi lập tức quỳ xuống rập đầu nói: “Đô đốc nghĩa cao như vậy, tôi không dám chối từ. Song xin đô đốc hãy giao số lụa cho tôi để tôi đi chuộc Trọng Tường đã kẻo muộn mất, rồi sẽ gặp vợ con sau”.
Thấy chàng ta cương quyết như vậy, Dương đô đốc chỉ đành sai tập trung số lụa lại để chàng ta lên đường.
Bảo An vội vã đến Ô-lô, chuộc được Trọng Tường về. Hai người bạn được gặp mặt, ngắm nghía nhau một lát rồi ôm chầm lấy nhau òa khóc.
Đợi công việc của Trọng Tường xong xuôi, Bảo An mới về gặp vợ con. Nhìn thấy con trai mình đã thành một thanh niên, cảm thấy thật ngỡ ngàng. Còn vợ mình vì mình thì cũng đã già đi. Thế mới biết mười năm đằng đẵng không khỏi tủi buồn. Song lại nghĩ Trọng Tường đã được trở về, nhà mình cũng đoàn viên, lòng lại thấy vui mừng khôn xiết.
Dương Đô đốc thấy Trọng Tường và Bảo An tình nghĩa như vậy thì rất cảm động, bèn tiến cử hai người đều được làm quan. Tuy hai người bạn mới gặp nhau chưa lâu, song cũng không thể không chia tay từ biệt.
Sau, vợ chồng Bảo An đều mất sớm, Trọng Tường thân chinh mang tro cốt của hai người đi hàng ngàn dặm đường mà không biết mệt, lại cùng con trai Bảo An coi mộ suốt ba năm. Rồi Trọng Tường lại tâu xin nhà vua để nhường chức quan của mình cho con Bảo An tên là Thiên Hựu. Nhà vua cảm động trước tình cảm của họ bèn phong cho họ đều làm huyện úy ở hai huyện liền kề nhau.