Thời Xuân Thu, trong triều đình của Tề Cảnh Công có ba người có sức khỏe kinh người, không ai địch nổi.
Người thứ nhất họ Điền tên gọi Khai Cương. Người này mặt đỏ như huyết phun, mắt như sao sáng, miệng diều hâu, tai mang cá, hàm răng liền khít khịt. Có một lần, Tề Cảnh Công đi săn ở núi Đông Sơn, bỗng từ trong hẻm núi phía tây có một con mãnh hổ chồm ra vồ con ngựa Cảnh Công đang cưỡi. Con ngựa kinh hãi lồng lên chạy, hất Cảnh Công ngã xuống đất. Điền Khai Cương vừa nhìn thấy lập tức phóng tới, tay trái túm chặt lông gáy con hổ, tay phải vung quyền đánh tới tấp, lại lấy chân đá vào mặt con hổ, vừa đấm vừa đá, khiến con hổ chết tươi. Cảnh Công về triều phong cho chàng ta là Thọ Ninh Quân.
Người thứ hai họ Cố tên Dã Tử. Người này mặt như mực đổ, má phính râu vàng, tay như cây móc bằng đồng, răng như lưỡi cưa sắc nhọn. Năm nọ, Cảnh Công đi qua sông Hoàng Hà, bỗng dưng trời đổ mưa lớn, sóng nổi dồn dập, chiếc thuyền vua đi muốn lật. Chợt thấy giữa đám mây mưa có một đám lửa cháy, rồi một con quái vật nhào lộn trên mặt nước. Cố Dã Tử đứng bên cạnh nói: “Đây nhất định là con giao long ở sông Hoàng Hà”. Cảnh Công lo sợ, hỏi: “Bây giờ làm sao đây?” Cố Dã Tử nói: “Chúa công chớ lo, hãy xem thần chém nó”. Nói xong, rút kiếm, cởi áo ngoài, nhảy xuống nước. Một lát sau, sóng gió yên hẳn, chỉ thấy Dã Tử tay xách cái đầu con giao long từ dưới nước vọt lên. Tề Cảnh Công bèn phong cho chàng ta là Vũ An Quân.
Còn người thứ ba họ Công Tôn, tên Tiếp, người cao lừng lững như tòa tháp, mắt hình tam giác, eo hổ lưng vượn, sức nâng nổi vạn cân. Có một lần, quân Tần xâm phạm vùng biên giới, Cảnh Công soái lĩnh binh mã tới nghênh chiến, bị quân Tần đánh bại, hãm vào vòng vây ở núi Phượng Ninh Sơn. Công Tôn Tiếp liền dùng một cây gậy sắt nặng khoảng 150 cân, xông vào quân Tần. Mười vạn quân Tần trở tay không kịp, bị giết chết lăn lông lốc. Cảnh Công được cứu nguy, bèn phong cho chàng ta là Uy Viễn Quân.
Ba anh chàng này kết anh em với nhau. Họ ngạo mạn vô lễ, ngang ngược hoành hành giữa chốn triều đình, xem vua quan như cây cỏ. Cảnh Công mỗi lần thấy họ bước lên điện là như có gai chích sau lưng.
Một hôm, nước Sở phái quan đại phu Cận Thượng sang nói chuyện giảng hòa, đòi nước Tề phải tôn nước Sở làm thượng quốc. Ba người kia nghe nói vậy, nổi giận quát võ sĩ chém đầu Cận Thượng và xin lãnh quân tiến sang đạp bằng nước Sở. Lúc đó, có một người từ ngoài bước vào. Người này dáng thấp bé nhưng mi thanh mục tú, răng trắng môi hồng. Đó chính là quan Thừa tướng nước Tề họ Án tên Anh, tự Bình Trọng.
Án Anh thấy tình hình như vậy bèn quát võ sĩ dừng tay, rồi hỏi rõ đầu đuôi xong, bảo tha cho Cận Thượng. Sau đó tâu trình với Cảnh Công, nói mình sẽ thân chinh sang thuyết phục vua tôi nước Sở để họ phải tôn Tề làm thượng quốc.
Điền Khai Cương nghe nói vậy nổi xung giận dữ, tóc dựng đứng lên, quát lớn: “Nhà ngươi chỉ là một đứa con nít! Người trong nước không có mắt nên để ngươi làm Thừa tướng, sao lại dám mở miệng nói càn như vậy? Ba người chúng ta đây có sức lực giết rồng, chém hổ, có dũng khí địch được muôn người, sẽ quyết đem tinh binh đến tiêu diệt nước Sở, cần gì đến ngươi!”
Tề Cảnh Công vội vàng khuyên giải. Lúc đó, Cố Giã Tử mới nói: “Hãy cứ để cho đứa con nít đi sứ lần này xem sao. Nếu làm tổn hại quốc uy thì trở về sẽ bị băm nát thành bùn”. Nói xong, cùng với Điền Khai Cương và Công Tôn Tiếp hầm hầm đi ra.
Cảnh Công rất lo cho Án Anh, song Án Anh lại chẳng để ý gì, mang theo hơn mười người tùy tùng lên đường sang nước Sở.
Đoàn xe và ngựa của Án Anh vừa tới Sính đô, vua tôi nước Sở bàn bạc với nhau rằng: “Án Anh nước Tề là người giỏi ăn nói, ta hãy lập kế khiến cho hắn không dám mở miệng!”
Bàn xong đâu đấy, cho mời Án Anh vào triều. Án Anh tới trước triều môn, thấy cổng chính không mở, cổng phụ bên cạnh thì chỉ kéo lên một nửa, cố ý để Án Anh phải chui vào. Tùy tùng vội ngăn lại nói: “Chúng thấy thừa tướng thấp bé nên làm vậy để hạ nhục ngài, sao ngài lại trúng kế chúng?” Án Anh cười lớn nói: “Các người không biết, ta nghe nói người thì đi cửa của người, chó thì đi cửa của chó. Đi sứ nước người thì nên vào cửa người, đi sứ nước chó thì vào cửa chó. Vậy có gì đáng nghi ngại?” Các đại thần nước Sở nghe nói vậy, lập tức cho mở ngay cửa lớn đón tiếp. Án Anh đàng hoàng bước vào, như không có ai xung quanh.
Vào đến trước điện, Án Anh làm đúng nghi lễ xong, vua Sở hỏi: “Ta nghe nói nước Tề đất đai chật hẹp, nhân khẩu ít ỏi, có đúng không?”
Án Anh trả lời: “Nước Tề chúng tôi phía đông nối liền hải đảo, phía tây kề sát Ngụy, Tần, phía bắc đã cự Triệu Yên, phía nam gồm thâu Ngô, Việt, làng này xóm khác, nghe thấy tiếng gà gáy chó sủa của nhau, kéo dài mấy ngàn dặm không dứt, sao lại bảo đất đai nhỏ hẹp?” Sở vương nói: “Đất đai rộng mà dân số lại ít”. Án Anh nói: “Người trong nước chúng tôi đông đúc đến nỗi thở hơi bốc như mây khói, vung mồ hôi như mưa rơi, người đi đường liền gót sát vai, sao lại bảo là dân chúng ít?” Sở vương hỏi: “Đã là đất rộng người đông, cớ sao lại cử một chú bé con đi sứ nước ta?” Án Anh nói: “Phàm đi sứ nước lớn thì dùng người lớn, đi sứ nước nhỏ thì dùng người nhỏ, bởi vậy mới cử tôi sang đây”.
Sở vương nhìn khắp bọn đại thần bề tôi, thấy đều im thin thít, chỉ đành mời Án Anh lên điện ngồi. Thị thần dâng rượu, Án Anh điềm nhiên vui vẻ uống, không để ý gì cả.
Một lúc sau, thị vệ giải một người tới trước điện. Án Anh nhìn ra, chính là một tên tùy tùng mình mang từ nước Tề sang, bèn hỏi y phạm tội gì, thị vệ nói: “Hắn ăn cắp bộ đồ uống rượu định trốn đi nhưng bị bắt quả tang”. Kẻ kia kêu oan. Án Anh nói: “Người và tang vật rõ ràng, còn dám chống chế à? Hãy mau lôi ra chém đầu cho ta!” Sở vương hỏi: “Thừa tướng từ xa tới, sao không đem theo những người thành thật? Nay kẻ tùy tùng này làm bậy như vậy, chẳng làm nhục cho chủ nhân sao?” Án Anh nói: “Tên này từ nhỏ đã theo tôi, tôi biết rõ nó. Nó ở nước Tề là người quân tử, khi sang nước Sở lại thành kẻ tiểu nhân, đó là phong tục biến hóa mà thành ra vậy. Tôi nghe nói cây quýt trồng ở Giang Nam cho quả vừa ngon vừa ngọt, nhưng khi đem sang trồng ở phía bắc thì lại biến thành vừa chua vừa đắng. Đó cũng là do phong tục bất đồng vậy. Cho nên tên này ở nước Tề thì không ăn cắp, khi sang nước Sở lại ăn cắp, cũng chẳng có gì là lạ!” 77F1.XTGEM.COM - Website đọc truyện số 1 !
Vua Sở kinh hãi, vội dời chỗ ngồi, bước tới chắp tay nói với Án Anh: “Các hạ thật đúng là bậc hiền sĩ! Xin dạy bảo cho!”
Án Anh bèn khuyên Sở vương nên thân chinh sang nước Tề giảng hòa. Sở vương nói: “Quả nhân tình nguyện giảng hòa song còn e bọn Điền Khai Cương, ba người đó của nước Tề không trọng tín nghĩa, vì vậy không dám sang”. Án Anh nói: “Xin đại vương yên tâm, thần xin bảo vệ cho ngài, sẽ có một kế nhỏ khiến bọn đó phải chết trước mặt ngài”.
Sở vương nói: “Nếu như bọn đó chết, ta sẽ tôn nước Tề làm thượng quốc, hàng năm sẽ triều kiến và tiến cống”.
Thế rồi lập tức mở tiệc khoản đãi Án Anh, lại chuẩn bị các lễ vật để dâng biếu.
Án Anh sai người về nước báo tin trước rồi ra về. Tề Cảnh Công hết sức vui mừng, lệnh cho tất cả các quan công khanh lớn nhỏ đều phải đi theo ra cổng thành nghênh đón thừa tướng. Án Anh vừa về đến nơi, Cảnh Công tự bước xuống kiệu thăm hỏi, sau đó cùng ngồi kiệu về. Người nước Tề đến xem đông chật đường đi. Bọn ba người Điền Khai Cương nghe nói, vô cùng tức tối.
Mấy ngày sau, Án Anh vào triều, thấy ba người đó ở trước điện, liền bước lên thi lễ. Bọn này giả bộ không nhìn thấy, không hề ngoảnh đầu. Án Anh cứ đứng vậy một lúc rồi mới bước đi. Khi gặp Cảnh Công, ông nói rõ điều vô lý đó của họ. Cảnh Công nói: “Ba tên này luôn luôn mang kiếm lên điện, xem ta như trẻ con, sau này nhất định chúng sẽ thoán vị. Ta vẫn muốn trừ bỏ chúng song không làm sao được”.
Án Anh nói: “Xin Chúa thượng yên tâm. Đợi khi nào vua tôi nước Sở sang đây, ta sẽ bày tiệc lớn, bấy giờ thần sẽ có một kế nhỏ để chúng phải tự sát hết, như thế được chăng?”
Cảnh Công hỏi: “Kế như thế nào?”
Án Anh nói: “Ba tên này đều là kẻ thất phu hữu dũng vô mưu. Cứ làm như thần nói, như thế, như thế là có thể trừ khử được chúng”. Cảnh Công cả mừng.
Mấy ngày sau, Sở vương dẫn theo văn võ bá quan, chở xe đầy vàng bạc châu báu, sang nước Tề để giảng hòa. Tề Cảnh Công mở tiệc lớn cùng chúc mừng lẫn nhau. Ba tên Điền Khai Cương mang kiếm đứng dưới điện, cao ngạo dương dương. Án Anh trước sau điềm nhiên tự tại, đối xử với chúng rất đúng độ.
Rượu được nửa tuần, Cảnh Công nói: “Hoa viên trong cung có cây Kim Đào, quả đã chín, có thể hái vào cùng ăn!”
Một lát sau, viên thái giám bê vào một cái mâm vàng trên để năm trái đào. Cảnh Công nói: “Cây đào trong cung này năm nay chỉ có được năm trái, vị ngọt hương thơm, khác hẳn các cây khác. Bây giờ thừa tướng hãy nâng ly mời rượu để mừng cho cây đào!”
Thời xưa, đào rất khó trồng, vì vậy trong vườn mà có được năm trái đào là của quý hiếm. Khi đó, Án Anh nâng ly rượu bằng ngọc trước hết kính mời Sở vương, Sở vương uống cạn ly xong, mời ăn một trái đào. Lại kính mời Tề vương. Tề vương uống xong lại mời ăn một trái đào.
Vua Tề nói: “Đào này là thứ quý. Nay thừa tướng đã làm cho hai nước hòa hiếu với nhau, công lao lớn như vậy, đáng được ăn một trái” Án Anh quỳ xuống ăn trái đào. Vua Tề lại ban cho Án Anh một ly rượu rồi nói: Trong các công khanh hai nước Tề, Sở, ai có thể nói rõ công lao lớn nhất của mình sẽ được ăn những trái đào này”
Điền Khai Cương liền vươn người bước ra, lớn tiếng nói: “Thần đã từng theo chúa thượng đi săn ở Đông Sơn, đã giết chết mãnh hổ, công lao ấy thế nào?”
Vua Tề nói: “Ra sức bảo vệ vua, công lao ấy thật không gì lớn bằng!”
Án Anh vội vàng tiến lên kính một ly rượu và mời anh ta ăn một trái đào.
Lúc đó, bỗng Cố Dã Tử đứng phắt dậy, nói: “Giết hổ có gì mà lạ! Ta từng chém chết giao long trên sông Hoàng Hà, cứu chúa thượng về nước, công lao đó thế nào đây?”
Vua Tề nói: “Đó là công lao cái thế. Mau mời rượu, ban đào!”
Án Anh vội tiến lên kính tửu, mời Cố Dã Tử một trái đào. Lúc đó, Công Tôn Tiếp xốc áo bước ra, nói lớn: “Ta đã từng xông pha trong mười vạn quân binh, tay vung gậy sắt cứu được chúa thượng. Quân địch không tên nào dám đến gần, vậy công đó ra sao?”
Vua Tề nói: “Công lao của khanh, trong trời đất này không gì sánh nổi. Nhưng không còn đào mà thưởng nữa rồi. Hãy cứ ban một ly rượu, còn đào thì sang năm sẽ ban!”
Án Anh cũng nói: “Thật ra thì công lao của tướng quân là lớn nhất, tiếc rằng nói chậm quá. Hôm nay không ăn được đào, thành thử không được nổi rõ công!”
Công Tôn Tiếp vỗ kiếm nói: “Chém giao long, giết mãnh hổ, đó chỉ là việc nhỏ. Ta đã từng tung hoành trong trốn muôn quân, như đi vào chỗ đông người, từng ra sức cứu được chúa thượng, lập được công lớn, thế mà lại không được ăn đào, thật nhục nhã trước vua tôi hai nước, đáng cười cho hậu thế, vậy ta còn mặt mũi nào đứng ở triều đình này nữa?” Nói xong, rút kiếm tự sát.
Điền Khai Cương thất kinh, cũng rút kiếm ra nói: “Ta công nhỏ mà lại ăn đào, người anh em công lớn mà lại không được ăn, điều xấu hổ này bao giờ mới gột rửa được? Nói rồi, đâm cổ tự sát”.