Tượng Võng nôn nóng hỏi: “Phải tìm ai đây? Xem ra chỉ mình Thanh Dương điện hạ là phù hợp, nhưng điện hạ đang bị trọng thương.”
“Con gái ta, Hiên Viên vương cơ – Hiên Viên Bạt.”
Ly Chu và Tượng Võng đưa mắt nhìn nhau, đều nghĩ tới Luy Tổ. Mấy người con của Luy Tổ tuy tính tình khác biệt, nhưng đều được hưởng thiên phú từ cha mẹ, rất giỏi cầm quân đánh trận, ngay đến Xương Ý tính tình hòa nhã cũng là tướng tài thiên bẩm.
Hoàng Đế lại nói: “Con nhỏ A Hành có phần giống ta và A Luy thời trẻ, tiếc rằng chẳng có được hùng tâm tráng chí như cha mẹ khi xưa. Nếu chẳng phải lần này ta bất ngờ bị thương, phải nhờ vào y thuật của nó mới kéo dài mạng sống, e rằng nó đã rời khỏi Hiên Viên từ lâu rồi. Trong mắt nó, ta không phải người cha tốt, nếu ta hạ lênh cho nó cầm quân ra trận, nhất định nó sẽ cự tuyệt. Nếu bức bách quá, có lẽ nó sẽ trực tiếp chiếu cáo thiên hạ, đoạn tuyệt tình cha con với ta, như trước đây từng làm với Thiếu Hạo không chừng.”
Nghĩ đến ân oán mấy ngàn năm giữa Luy Tổ và Đông Ngư thị, Ly Chu và Tượng Võng không nén được tiếng thở dài: “Vậy phải làm sao mới thuyết phục được vương cơ đây?”
Hoàng Đế đưa mắt nhìn Tri Mạt: “Ông có thể thuyết phục nó.”
Tri Mạt làm thinh không đáp.
Hoàng Đế lại nói: “Không phải ta muốn ép buộc con gái mình, nhưng giữa ta và Xi Vưu, giữa Hiên Viên và Thần Nông chỉ có một bên được sống mà thôi. Cái họa vong quốc diệt tộc đã rành rành trước mắt, chúng ta còn đường nào để đi đây? Tri Mạt, lẽ nào ngươi quên nỗi đau như cắt mình từng trải qua rồi ư? Lẽ nào ngươi muốn con dân Hiên Viên cũng phải chịu đọa đầy đau đớn như vậy ư? Lẽ nào ngươi quên chúng ta vì cái gì mà lập nên Hiên Viên quốc rồi ư?
Tri Mạt ngẩng phắt lên, chằm chằm nhìn thẳng vào mắt Hoàng Đế, đêu bên đều nhận ra đối phương đã đi guốc vào bụng mình. Hoàng Đế hiểu Tri Mạt đã phát giác ra mưu kế của mình, Tri Mạt cũng hiểu Hoàng Đế đã nhận ra ông ta phát giác. Nhưng Hoàng Đế chẳng hề lo lắng, bởi ông đã dùng Tri Mạt đến đường cùng, thuật chế ngự lòng người của Hoàng Đế, quả là vô địch thiên hạ.
Một hồi lâu, Tri Mạt quỳ sụp xuống, “Thần sẽ đi thuyết phục vương cơ.”
Một phong thư lạ hoắc được đưa lên Triêu Vân phong, nói là gửi cho vương cơ, nhưng trên thẻ trúc lại chẳng ghi gì ngoài một dòng địa chỉ, quay sang hỏi A Hành: “Vương cơ có bạn bè gì ở đó chăng?”
A Hành lắc đầu: “Không có.”
Chu Du nghe nói liền quăng tấm thẻ trúc lên án thư, nào ngờ bên trong lại rơi ra một mảnh vải rách: “Ồ, cái gì đây? Hình như là thư tuyệt mệnh dùng máu viết thành đó.”
A Hành vội cầm lên xem. Vết máu đã ngả nâu, nhưng sức mạnh sụt sôi giữa từng nét chữ vẫn phả vào rát mặt.
Bao nhiêu năm đã trôi qua, nhưng cảnh tượng bi tráng ngày ấy vẫn rõ mồn một trong trí nàng như mới hôm qua. Một trăm chiến sĩ Hiên Viên tộc xé quần áo trên người lấy vải, dùng máu mình viết thư vĩnh biệt gửi người thân, rồi xông thẳng vào Tuân Sơn, sau cùng, kẻ bị giết, người chôn thân trong biển lửa. Chính bọn họ đã dùng tuổi xuân của mình đổi lấy tính mạng cho Xương Phó và bốn ngàn dũng sĩ Nhược Thủy tộc.
A Hành định thần xem lại, thấy phong thư này ký tên Nhạc Uyên. Nàng còn nhớ gã thiếu niên đó, kẻ đầu tiên đứng ra khẳng khái tâu trình, ổn định lòng quân; kẻ đầu tiên xông vào Tuân Sơn, bình thản đón nhận cái chết; sau cùng còn can đảm buông tay không kháng cự, dốc toàn bộ linh lực hóa thành tín hiệu cảnh báo với nàng, chỉ rõ phương hướng của Chúc Dung, bằng không, e rằng cả nàng và Xi Vưu cũng không tránh khỏi cái chết.
Một thiếu niên như thế lại hy sinh âm thầm lặng lẽ nhường kia, vĩnh viễn chẳng thể được người đời ghi nhớ và ca tụng như Chúc Dung, nhưng chính những thiếu niên dũng mãnh vô danh ấy, mới chèo chống được quốc gia này.
A Hành vội gọi A Tệ hạ sơn, theo địa chỉ ghi trên thư mà tìm đến.
Quân đội của Xi Vưu đã tiến đến Hắc thủy. Để tránh chiến hỏa, dân chúng đua nhau đổ dồn về phía Tây, ngoài Hiên Viên thành đầy những dân chạy loạn, họ không có tiền ở khách điếm, cũng không có bạn bè người thân để nương nhờ, đành phải sống cảnh màn trời chiếu đất. Ban ngày trời ấm áp, kể cũng không tới nỗi nào, nhưng ban đêm trời lạnh thấu xương, những người này ăn không đủ no, mặc không đủ ấm, lại lặn lội đường xa tới đây, đa phần đều không gắn gượng nổi mà bỏ mạng. Không có nghĩa địa, xác họ được vùi ngay tại chỗ.
Đám nhỏ còn chưa biết thế nào, đau khổ, vẫn ôm bụng đói nô đùa ầm ĩ, chạy nhãy giỡn hớt giữa những nấm mồ, nhưng tiếng cười rộn rã chẳng bợn ưu sầu của chúng chỉ càng làm nổi bật cái gọi là nhân thế vô tình.
A Hành trông thấy một bé gài cao xấp xỉ Tiểu Yêu đang thẫn thờ đứng trước một nấm mồ, bèn tiến lại. Cô bé ngẩng lên trông thấy A Hành, lẩm bẩm nói: “Đói quá.”
“Cha cháu đâu?”
“Đi đánh trận rồi.”
“Thế còn mẹ?”
Bé trỏ nắm đất trước mặt, ngây thơ đáp: “Mẹ đang ngủ bên dưới.”
A Hành xót xa ẵm đứa nhỏ lên, nhìn khắp sườn đồi đều là những kẻ rách rưới bần hàn, nàng chợt thấy choáng váng không sao chịu nổi, lẽ nào đây là Hiên Viên mỹ lệ nơi nàng sinh ra và lớn lên ư?
Tri Mạt bước lại gần, đưa cho bé gái một tấm bánh.
“Cám ơn ông.” Bé cẩn thận bẻ tấm bánh thành hai phần, nhét một nửa vào ngực áo, còn mình chỉ ăn một nửa.
Tri Mạt thắc mắc: “Sao cháu chỉ ăn một nửa?”
“Một nửa đề dành cho mẹ cháu, mẹ cũng đói lắm.”
Tri Mạt cười gượng: “Ngoan quá, cháu cứ ăn đi, khi nào mẹ cháu tỉnh dậy, ông lại mua cho hai mẹ con cái khác.”
“Thật không?”
“Thật mà.”
Bấy giờ cô bé mới hớn hở lấy nửa tấm bánh kia ra ăn ngấu nghiến.
A Hành đã làm mẹ, trông thấy cô bé như vậy, lòng lại càng đau xót khôn tả. Trên ngọn núi này còn bao nhiêu đứa nhỏ thế này? Trên toàn Hiên Viên còn bao nhiêu đứa nhỏ thế này nữa?
Nhìn đám người trên sườn núi, vẻ mặt Tri Mạt đầy đau xót: “Vương cơ chưa từng trải qua cảnh nghèo hèn loạn lạc, nhưng thần từ nhỏ đã lênh đênh lưu lạc, nếm đủ đắng cay, mới hiểu thế nào là: thà làm chó thời bình, hơn làm người thời loạn.”
A Hành nhìn quanh, “Dù khi trước chưa hiểu, thì giờ cũng hiểu rồi.”
“Thần dùng bức thư kia dẫn dụ vương cơ tới đây, vốn đã chuẩn bị rất nhiều lời để thuyết phục, nhưng giờ lại chẳng thốt nổi ra miệng. Xưa nay thần vẫn không ủng hộ bệ hạ tấn công Thần Nông, hay nói khác đi là không ủng hộ khát vọng thống nhất Trung Nguyên của bệ hạ, bởi vậy trước trận Phản Tuyền lần thứ nhất, thần đã rời khỏi Hiên Viên thành, ẩn cư tại Đồng Nhĩ sơn. Nhưng sau trận Phản Tuyền lần thứ hai, Hoàng Đế lâm nguy, thần lại quay về Hiên Viên thành, giúp bệ hạ chèo chống Hiên Viên, không phải vì nể tình cũ giữa đôi bên, mà vì những người dân đang sống trên mảnh đất Hiên Viên này. Vương hậu đã dốc hết tâm sức, giúp bệ hạ lập nên Hiên Viên quốc này, không phải chỉ vỉ bệ hạ, mà bởi vương hậu cũng giống như thần, đều muốn xây dựng một nơi mà dân đen, dân lưu lạc và Yêu tộc bị kỳ thị hắt hủi đều có thể sống bình đẳng cùng nhau. Dưới sự mỗ lực của mọi người, cuối cùng Hiên Viên quốc đã thật sự trở thành một nơi như thế. Có lẽ vương hậu hối hận vì đã yêu bệ hạ, nhưng thần tin rằng, xưa nay bà chưa hề hối hận vì tất cả những gì đã bỏ ra cho Hiên Viên quốc.”
A Hành rút bức huyết thư trong ngực áo ra: “Sao bá bá lại có thứ này? Năm đó, con vốn định đích thân đem những bức thư này tới tay người nhà bọn họ, nhưng Tứ tẩu đột ngột qua đời, rồi mẫu hậu lại ngã bệnh, con đành phải phái thị vệ đi đưa giùm.”
Tri Mạt cười bình thản, nhưng nét mặt lại thê lương khôn xiết: “Đó là thư con trai thần gửi lại, lúc đó thần đang ẩn cư tại Đồng Nhĩ sơn, nên địa chỉ nó ghi cũng là Đồng Nhĩ sơn.”
A Hành sững người, mắt long lanh nước: “Bá bá.”
Tri Mạt vỗ vai nàng, “A Hành, khắp Hiên Viên quốc đâu đâu cũng có những chiến sĩ giống như con trai ta. Có lẽ cha của đứa nhỏ kia cũng vậy, có điều y còn bất hạnh hơn, chẳng có cơ hội để lại cho người thân một phong thư vĩnh biệt nữa. Ít ra, ta còn biết được con trai mình chết tại Tuân sơn, có thể đi Tuân sơn bái tế, nhưng đứa nhỏ này ngay cả cha mình hy sinh ở chốn nào cũng không biết. Nếu cuộc chiến này cứ thế kéo dài, sẽ còn bao nhiêu người cha phải hy sinh? Còn bao nhiêu người mẹ phải ôm hận chết đi? Còn bao nhiêu đứa nhỏ phải chết đói? Con đã là mẹ, hẳn cũng hiểu được nỗi lòng người mẹ, không thể bảo vệ cho con mình, không thể trông thấy con mình lớn lên bình an, đồi với người làm mẹ, là điều tàn khốc đến độ nào.”
“Phải làm sao mới có thể chấm dứt chiến tranh?”
“Đã đi đến bước này, chỉ còn cách lấy chiến tranh để chấm dứt chiến tranh thôi. Bá bá biết con chất chứa rất nhiều nỗi khổ trong lòng, càng biết con không muốn cầm quân đánh trận, nhưng ta tin nếu vương hậu còn tại thế, chứng kiến thảm cảnh hiện giờ, cũng sẽ nói rằng: con là vương cơ của Hiên Viên, những đứa trẻ này, những người mẹ này đều là con dân của con, con có trách nhiệm phải bảo vệ họ.”
A Hành nhìn cô bé trong lòng mình, lặng thinh không đáp. Trước mắt nàng lại hiện lên dáng hình cùng gương mặt khẳng khái quyết tử của Nhạc Uyên, rồi bóng dáng ấy dần dần tan nhòa ra, hòa lẫn với bóng dáng một nam tử không rõ mặt mày, đó là cha của cô bé, y đang nhìn nàng đầy cầu khẩn.
Tri Mạt giơ tay ẵm lấy cô bé đang thiêm thiếp trong lòng A Hành: “Chuyện này cứ để thần lo, vương cơ nên đi làm những việc mình không thể không làm đi.”
A Hành lặng lẽ nhìn đám người bần hàn khốn khổ nhan nhãn khắp sườn núi, ánh mắt toát lên vẻ bi thương khôn tả xen lẫn tuyệt vọng cực cùng. Tri Mạt cũng chẳng giục giã nàng. Một hồi lâu sau, A Hành rảo bước chảy thẳng xuống núi, mới nghe tiếng Tri Mạt gọi với đằng sau: “Ứng Long đang ở Hà thủy.”
A Hành bước vào Triêu Vân điện đúng lúc Hoàng Đế đang dạy Chuyên Húc học, bài hịch chính là một đoạn hịch ông viết gửi Xi Vưu cũng như toàn thiên hạ.
Mặt trời đang chính ngọ mà không phơi phóng, chính là để lỡ thời cơ, cầm dao mà không cắt, chính là để lỡ thời điểm thuận lợi, cầm búa mà không công phạt, kẻ xấu sẽ tràn đến. Mạch nước nhỏ mà không ngăn chặn, sẽ hội tụ thành sông suối, đốm lửa nhỏ mà không dập, sẽ bùng lên thành ngọn lửa ngút trời, cái mầm mới nhú mà không trừ, ngày sau sẽ trở thành cây đại thụ.
Chuyên Húc hỏi: “Vậy vẫn phải động võ ư? Hôm qua ông dạy cháu rằng: lấy đức thu phục thiên hạ mới là thượng sách, không nên tùy tiện động võ kia mà?”
Hoàng Đế đưa mắt nhìn A Hành, đáp: “Có lúc chiến tranh đã nổ ra thì chẳng còn đúng sai phải trái gì nữa, cách duy nhất để chấm dứt chính là dùng vũ lực để kiềm chế vũ lực, dùng chiến tranh để chấm dứt chiến tranh.”
A Hành bước đến trước mặt Hoàng Đế, “Phụ vương ủy thác cho Tri Mạt bá bá tới thuyết phục con ư?”
“Phải.”
“Con bằng lòng cầm quân ra trận không phải vì phụ vương, phụ vương có ngày hôm nay đều là tự làm tự chịu! Nếu Hiên Viên chỉ là của riêng phụ vương thì dù nó có bị hủy diệt cũng chẳng liên quan gì đến con hết. Tiếc rằng Hiên Viên quốc không chỉ thuộc về một mình phụ vương, mà còn là tâm huyết cả đời của mẹ, cùng những người như Tri Mạt bá bá, còn là của vô số chiến sĩ Hiên Viên đã hy sinh, hơn nữa, còn là của toàn thể trăm họ Hiên Viên.”