Nói rồi, hắn bế thi thể Đồng Ngư thị, loạng choạng chạy vào rừng.
Không ai ngờ ngay trong tang lễ lại xảy ra biến cố thế này, còn liên quan cả tới bí mật của vương thất, mọi người nhất loạt quỳ xuống, lòng nơm nớp lo âu, đến thở cũng không dám thở mạnh.
Hoàng Đế sầm mặt ra lệnh: “Giam tất cả người Nhược Thủy tộc lại, nhốt Xương Phó vào thiên lao, giao cho Thu quan ti khấu đích thân thẩm vấn, xử trí theo luật.”
Xương Phó ngoảnh lại bảo đám tùy tùng: “Bỏ binh khí xuống, không được phản kháng.”
Nói đoạn, nàng quay sang bế Chuyên Húc lên, thì thầm nói: “Con ngoan, mẹ rất muốn chứng kiến con trưởng thành, nhưng không được nữa rồi, mẹ nhớ cha lắm. Có lẽ con sẽ giận mẹ, nhưng đến một ngày nào đó, khi con gặp được cô gái con yêu thương, hẹn thề sống chết cùng cô ấy, con sẽ hiểu cho mẹ.” Nàng rút Nhược Mộc hoa gài bên mai tóc, đặt vào tay Chuyên Húc: “Khi nào con gặp cô gái ấy, nhớ tặng bông hoa này cho cô ấy, dắt cô ấy tới trước mộ cha mẹ nhé.”
Chuyên Húc cũng có dự cảm không lành, liền khóc ré lên:, “Mẹ, mẹ ơi!”
Xương Phó ôm chặt lấy con trai, vừa hôn vừa dặn dò: “Về sau con phải nghe lời cô cô, cô cô sẽ chăm lo cho con, mẹ đi tìm cha con đây. Dù con có hận mẹ, cũng nhất định phải trưởng thành, lấy vợ sinh con, sinh một bầy cháu nhỏ nhé, cha con chắc chắn sẽ vui lắm đấy…”
A Hành biết Hoàng Đế nhất định không nhân nhượng cho hành vi hành thích ngay trước mặt mọi người của Xương Phó, không chỉ vì Xương Phó đã giết vương phi của Hiên Viên quốc, mà còn bởi nếu bỏ qua cho Xương Phó một lần, thì những người khác cũng được đà, chẳng coi vương pháp ra gì, tùy ý hành thích, quốc gia sẽ loạn.
Hiện giờ trước hết phải tuân lệnh, ngoan ngoãn vào ngục trước đã, sau đó sẽ tính kế hóa giải, xem ra Xương Phó cũng hiểu điều này, nên mới ra lệnh cho tất cả thị vệ của mình lập tức bỏ binh khí xuống.
A Hành vừa thở phào nhẹ nhõm, chợt thấy Xương Phó bế Chuyên Húc lên, thì thầm dặn dò, không hiểu dặn điều gì nhưng nhìn có vẻ vô cùng lưu luyến Chuyên Húc, ánh mắt lại không rời huyệt mộ của Xương Ý, vừa cười vừa khóc, khi cười thì rạng ngời hạnh phúc, khi khóc lại bi ai thảm thiết. A Hành bất giác lạnh toát người, lập tức chạy đến, “Tứ tẩu, nhất định không được làm chuyện dại dột!” Nói rồi nàng với tay ra, toan kéo Xương Phó lại.
Xương Phó đặt Chuyên Húc vào tay A Hành đang đưa tới, “Tiểu muội, xin lỗi, phải nhờ muội lo liệu mọi chuyện rồi, nhớ chăm sóc Chuyên Húc giùm ta nhé.”
Thấy Chuyên Húc được đưa đến tay, A Hành vội ẵm lấy nó theo phản xạ, những ngón tay lạnh buốt của Xương Phó liền lướt qua kẽ tay nàng, “Tứ ca muội nhờ ta nhắn lại rằng, chàng không trách Xi Vưu nữa đâu.”
A Hành thoáng ngẩn người, chỉ trong chớp mắt, Xương Phó đã xoay tay lại cắm phập thanh chủy thủ vào ngực mình.
Đám thị vệ đang chạy tới bắt giữ Xương Phó thất thanh la lên, ngây người ra không hiểu mô tê gì cả.
A Hành há hốc miệng, cổ họng nghẹn ngào, ra sức ấn đầu Chuyên Húc vào lòng mình, không để cậu trông thấy, thân hình nàng run lên bần bật, khiến Chuyên Húc cũng run bắn lên theo.
Chuyên Húc khóc ré lên gọi mẹ, đột nhiên cắn mạnh vào tay A Hành, thừa dịp quay phắt lại, trông thấy trên ngực mẹ cậu cắm một thanh chủy thủ, thân mình loạng choạng tiến về phía huyệt mộ của cha. Y phục mẹ cậu nhuộm đầy máu tươi, đỏ đến chói mắt, hệt như tấm áo cưới đỏ rực mà cậu trông thấy trong hôn lễ của Đại bá vậy.
Xương Phó giẫm lên vùng máu lênh láng, từng bước, từng bước, cuối cùng cũng bước đến bên huyệt mộ của Xương Ý. Nàng chăm chú nhìn A Hành rồi từ từ rút chủy thủ ra, tựa hồ định trao lại cho A Hành, nhưng đã sức tàn lực kiệt, cánh tay rũ xuống, chủy thủ cũng theo tay rơi xuống đất, keng một tiếng rất khẽ, lại chấn động tất cả mọi người ở đó.
A Hành nước mắt như mưa, gật gật đầu, “Muội hiểu mà, Tứ tẩu, tẩu yên tâm đi đi! Nhắn lại với Tứ ca, muội nhất định không để bất cứ kẻ nào làm tổn hại đến Chuyên Húc đâu!”
Chuyên Húc rào lên thảm thiết: “Mẹ, mẹ ơi, đừng bỏ con!” Đột nhiên, chẳng hiểu cậu lấy đâu ra sức mạnh, đẩy phắt A Hành ra, lảo đảo chạy về phía mộ huyệt, “Mẹ, cha, đừng bỏ con mà!”
Thật lạ lùng, có lẽ vì linh lực của Xương Phó tản mác, làm biến đổi cả cảnh vật xung quanh, huyệt mộ đột nhiên tự động khép lại.
Mặt đất bốn bề lập tức gồ lên rồi từ từ hợp lại, tạo thành một nấm đất như bát úp, cản Chuyên Húc lại bên ngoài.
Phía trên huyệt mộ, từ những vết máu loang lồ Xương Phó để lại, chợt mọc ra vô vàn đóa hoa nhỏ không tên. Cứ hai đóa chung một cánh, cùng một cuống, nương tựa vào nhau, rỡ ràng đón gió, chẳng mấy chốc, cả nấm mồ đã phủ kiến những đóa hoa đỏ thắm. Gió thổi qua, trăm ngàn đóa hoa đung đưa trước gió, dường như loáng thoáng nghe thấy tiếng cười rộn rã đâu đây.
Tất cả mọi người đều trố mắt nhìn cảnh tượng trước mặt, không thốt nổi một lời, chỉ mình Chuyên Húc vẫn ra sức đấm vào nấm mộ, khóc lóc gọi: “Mẹ ơi, mẹ ơi, mẹ ơi…”
A Hành nhặt thanh chủy thủ đẫm máu Xương Phó lên, quỳ xuống trước mộ Tứ ca, Tứ tẩu, gương mặt tái nhợt chết lặng, như một pho tượng vô hồn.
Hoàng Đế ngồi lặng trong Chỉ Nguyệt điện, nét mặt tiều tụy mệt mỏi, liên tiếp cử hành ba tang lễ, con trai, con dâu, rồi đến vợ, dẫu là người kiên cường như ông cũng không sao chịu nổi.
Dường như vì mọi sự xảy ra quá nhanh, mãi đến giờ ông vẫn còn ngỡ ngàng, chưa hề tin đó là sự thật. Đồng Ngư đi thật rồi sao?
Từ lần đầu gặp gỡ khi còn nhỏ tuổi vô tư, đến sau này nghi kỵ lẫn nhau, tuy ngày ngày Đồng Ngư đều kề cận bên giường, nhưng ông lại thấy nàng mỗi lúc một xa lạ, không còn là cô bé nấp trong ruộng cao lương ném quả lê vào ông ngày nào nữa. Mấy ngàn năm yêu hận dây dưa, mỗi lần ông nhẫn nhịn, chỉ là vì nhớ đến cái đêm trăng sáng sao thưa ấy, trên đỉnh núi mọc đầy cỏ dại, ông từ một chàng trai biến thành một người đàn ông, Đồng Ngư cũng từ một cô bé biến thành một người phụ nữ, nàng đã rúc vào lòng ông run lên, chẳng rõ là lạnh vì gió núi, hay là vì căng thẳng sợ hãi. Ông đã hứa với Đồng Ngư: “Ta sẽ cất căn nhà thật lớn để cưới nàng về.” Đồng Ngư phì một tiếng: “Ai thèm? Mông Đàm mấy ngày trước đến cầu hôn với cha ta cũng có căn nhà lớn lắm rồi.” Ông cười trỏ vầng trăng trên trời: “Căn nhà ta cất có thể trông thấy ánh trăng đẹp nhất trần đời, giống như đêm nay vậy, hai ta có thể ngày ngày ngắm trăng cùng nhau.” Đồng Ngư vùi mặt vào ngực ông cười thầm, thân mình không run lên nữa, chỉ nghe tiếng thì thào khe khẽ: “Ta không muốn ngắm trăng, chỉ muốn ngắm tên ngốc trỏ vầng trăng kia thôi!”
Năm ấy, hai người bọn họ bất kể thế nào cũng không ngờ được, mấy ngàn năm sau, ngay giữa Chỉ Nguyệt điện mà ông xây dựng cho Đồng Ngư, ông lại giận dữ tuyên bố cắt đứt tình xưa, còn nói nếu Đồng Ngư dám động vào người trên Triêu Vân điện nữa, ông sẽ khiến nàng tan thành tro bụi. Rồi mặc cho nàng khóc lóc thảm thiết, ông đá văng nàng ra, quyết định dứt khoát rời bỏ, mà đâu có ngờ, nàng còn dứt khoát rời bỏ hơn ông.
Hoàng Đế đẩy cửa ra, liền trông thấy vầng trăng khuyết cong cong như móc câu ngoài cửa sổ. Ông tựa người vào sập, lặng lẽ ngắm trăng.
Tòa cung điện này dựng nên vì Đồng Ngư, nhưng cả ngàn năm nay, ông chưa hề cùng Đồng Ngư sánh vai ngắm nhìn trăng sáng, ông đã không còn là ông năm ấy, nàng cũng không còn là nàng khi xưa, sánh vai cùng ngồi còn ý nghĩa gì nữa chứ. Có điều, chẳng rõ tại sao, sau một ngày mệt mỏi, ông luôn thích nằm dài ở đây, ngắm nhìn trăng sáng, dưới ánh trăng mờ ảo ấy, có ông một thời trẻ trung sôi nổi, còn có cả một thiếu nữ có thể làm chứng cho thời niên thiếu sôi nổi của ông. Có điều thời gian đằng đẵng xóa nhòa tất cả, ông đã chẳng còn phân rõ được người con gái mình nhung nhớ là ai, là cô gái yểu điệu run lên trong lòng ông, hay nàng thiếu nữ ngạo nghễ băng qua ánh trăng vằng vặc bước đến trước mặt ông, hay đều không phải?
Hoàng Đế tựa mình vào gối ngọc, tựa ngủ mà không phải ngủ, chẳng biết bao lâu sau, có thầy thuốc tới cầu kiến.
“Muộn thế này, thần vốn không nên tới quấy rầy bệ hạ nghỉ ngơi, nhưng bệ hạ đã căn dặn phải lập tức bẩm báo bệnh tình của vương hậu nương nương, bất kể lúc nào.”
Hoàng Đế ôn hòa mà uy nghiêm nói: “Ngươi làm đúng lắm.”
“Nghe các cung nữ hầu hạ vương hậu kể, vừa nghe tin Tứ vương tử phi tự vẫn, vương hậu nương nương tức thì ngất lịm, bọn họ vội tuyên triệu thần, khi thần đến nơi thì vương hậu đã tỉnh lại, mặc cho thần khuyên can đủ mọi cách, nương nương vẫn bắt đám cung nữ kể lại tường tận sự tình. Nghe nói Đồng Ngư nương nương vì cứu Cửu điện hạ mà đem thân đỡ đao, chết ngay tại chỗ, nương nương lại kích động cười rộ lên, cười mãi cười mãi rồi bắt đầu òa lên khóc, vừa khóc vừa ho rũ rượi, ho ra toàn là máu. Các cung nữ quỳ đầy dưới đất, kẻ van vỉ người khuyên nhủ, nhưng vương hậu vẫn kích động, không sao bình tĩnh lại được, cũng không chịu cho thần xem bệnh, may sao bấy giờ vương cơ về kịp, dẫn theo Chuyên Húc vương tử và Cửu Dao vương cơ quỳ trước giường vương hậu, dập đầu lia lịa, bấy giờ vương hậu mới chịu để cho thần chẩn mạch.”
“Bệnh tình bà ấy thế nào?”
“Uất khí tích tụ trong ngực, nhiều năm không tan, tâm mạch đã thương tổn, từ sau khi Chuyên Húc tiểu vương tử ra đời, bệnh tình vương hậu đã có biến chuyển, có điều mấy ngày nay liên tiếp bị kích động, cơn bệnh không còn khống chết được nữa, linh khí rối loạn hoàn toàn, hiện giờ thần cũng không dám dùng thuốc, chỉ dám kê vài vị an thần thôi.”
“Rốt cuộc là sao?”
Thầy thuốc thoáng do dự, đoạn dập đầu binh binh, khẽ đáp: “Trầm kha khó chữa, không cách nào cứu vãn, sớm muộn ắt sẽ… Thần không dám thưa thật với vương hậu, chỉ nói là nhất thời đau buồn quá độ, yên lòng tĩnh dưỡng sẽ khỏe.”
Hoàng Đế kinh ngạc sững sờ, bất giác lại đưa mắt nhìn ra cửa sổ.
Thầy thuốc căng thẳng đợi hồi lâu, chẳng thấy Hoàng Đế ừ hữ gì. Y len lén nghiêng đầu nhìn trộm Hoàng Đế, từ góc độ của y, chẳng thể thấy được nét mặt Hoàng Đế, chỉ thấy rõ mồn một khung cảnh ngoài song. Vành trăng cong vút như một chiếc móc câu ngọc ngà nghiêng nghiêng treo dưới song cửa.
Hoàng Đế vẫn không lên tiếng, thầy thuốc cũng chẳng dám ho he.
Mãi đến khi đầu gối gã thầy thuốc đã tê dại cả đi, Hoàng Đế mới đột ngột định thần lại, trông thấy y, Hoàng Đế ngạc nhiên hỏi: “Sao ngươi còn ở đây?”
Thầy thuốc vội dập đầu: “Thần cáo lui.” Đoạn tức tốc lùi ra khỏi đại điện.
Trăng lên quá đỉnh đầu, mọi âm thanh đều bặt tiếng.
Chu Du ngồi trông Luy Tổ, cứ tựa người bên sập gật gà gật gù. Vân Tang đã dắt Chuyên Húc và Cửu Dao đi nghỉ. A Hành còn đang tất bật giã thuốc, nhưng giã xong lại bỏ đi, đổ xong lại giã, ánh mắt đầy đau khổ và lo lắng.
Thiếu Hạo nhân đêm tối đã chạy đến Triêu Vân phong, thoạt tiên y lặng lẽ tới thăm Luy Tổ, rồi sau đó, được Chu Du chỉ dẫn, lại ta sau đình viện tìm A Hành. Y khe khẽ gọi nàng nhưng A Hành một mực làm ngơ, đi lướt qua y, như không nghe thấy.
Thiếu Hạo đành ngồi xuống thềm đá, lặng lẽ nhìn A Hành đi qua đi lại.
Chu Du nói thầy thuốc bảo không có gì đáng ngại, nhưng y vốn rõ hơn ai hết, thầy thuốc trong cung đình hễ gặp bệnh nặng thường sẽ không dám nói th