lần này sứ giả đem theo hai bà mụ tinh thông y thuật, nói rằng phụng mệnh Hoàng Đế đến chăm sóc cho nàng. A Hành biết Di Bành lại giở trò quỷ, nhưng vẫn định tương kế tựu kế, nhân dịp này chứng minh mọi chuyện, nên để mặc cho hai mụ già đó theo bên mình.
Tháng Tư năm sau, dưới sự trợ giúp của các danh y, A Hành trở dạ sinh con.
Đứa bé sinh ra vô cùng khỏe mạnh, nhưng A Hành lại phải trải qua một phen thập tử nhất sinh. Nếu không nhờ Thiếu Hạo dùng linh lực kết thành trận pháp, lại thêm thủy ngọc Quy khư bảo hộ tâm thần, e rằng A Hành không sao chịu đựng nổi tới khi đứa nhỏ chào đời. Hai bà mụ còn chẳng dám đụng vào người A Hành, sợ gánh trách nhiệm, chỉ đứng đờ ra một bên, thấy đứa bé chào đời suôn sẻ lập tức chuồn khỏi tâm cung.
Nghe tiếng đứa nhỏ khóc oa oa, Thiếu Hạo vội chạy vào phòng.
Thấy cả người A Hành dầm dề mồ hôi, mê man bất tỉnh, y liền nắm lấy tay nàng, truyền thêm linh lực vào hỗ trợ.
Bấy giờ A Hành mới hơi tỉnh lại, thì thào gọi: “Con ơi, con!”
Thiếu Hạo lập tức gọi thị nữ, thị nữ liền bế đứa trẻ vừa tắm rửa sạch sẽ tới trước mặt Thiếu Hạo, mừng rỡ thưa: “Chúc mừng bệ hạ, là một vương cơ.”
Thiếu Hạo ẵm đứa bé vào lòng, lạ thay, đứa bé đang gào khóc oa oa đột ngột nín bặt, đôi mắt đen láy tròn xoe nhìn Thiếu Hạo, khóe miệng xinh xinh bỗng nhoẻn cười. Thiếu Hạo mỉm cười, ôm đứa bé cho A Hành ngắm: “Là con gái đó.”
A Hành khó nhọc mở mắt ngắm nhìn gương mặt con, đoạn nàng rút Trụ Nhan hoa, cắn ngón giữa bôi máu lên, biến Trụ Nhan hoa thành một đóa hoa đào nhỏ bằng móng tay. Được nhuộm bằng máu A Hành, đóa hoa càng thắm tươi kiều diễm, hệt như vừa trảy từ cành.
Thiếu Hạo lo lắng: “Nàng định làm gì? Nàng vừa hao tổn rất nhiều linh lực, không được…”
A Hành đặt đóa hoa đào bằng móng tay lên mi tâm đứa nhỏ, cả đóa hoa lập tức đỏ hồng lên, nóng rãy như sắt trong lò, khiến đứa nhỏ bị phỏng khóc ré lên.
A Hành lấy ngón giữa ấn đóa hoa đào lún sâu xuống, làm cho đứa bé đau đớn tím tái cả mặt mày, khóc đến hết hơi. Nước mắt hòa lẫn với mồ hôi đầm đìa trên mặt A Hành, thân hình như chực gục xuống nhưng nàng vẫn nghiến răng gắng gượng ấn đóa hoa lút từ từ vào trán đứa bé.
“Cho thiếp xin một giọt máu trong tim chàng, để phong ấn, phong ấn…” A Hành nhũn người ngã lăn ra, hôn mê bất tỉnh.
Thiếu Hạo vội nắm lấy tay A Hành, truyền linh lực vào người nàng, đồng thời cắn ngón giữa tay trái nhỏ máu lên vết thương hình cánh đào trên trán đứa nhỏ, lập tức vết thương liền lại ngay, vừa may đứa nhỏ đã khóc không ra tiếng, chỉ còn há miệng hớp hớp không khí.
Thiếu Hạo liền đút ngón tay rướm máu vào miệng đứa bé, nó ngậm lấy mút chùn chụt, mút được tinh huyết của y, sắc mặt nó cũng tươi dần lên, bàn tay bé xíu nắm chặt lấy ngón tay Thiếu Hạo, cười tít mắt. Vết thương trên trán nó đã khép miệng hoàn toàn, thoạt trông như một vết bớt nhàn nhạt hình hoa đào.
Thiếu Hạo vừa đùa với nó, vừa rủ rỉ: “Mong rằng suốt đời con sẽ luôn luôn tươi cười như hiện giờ, khỏi phụ tấm lòng mẹ con đã đem cả tính mạng ra bảo vệ cho con.”
Người trong Thần tộc sinh con sẽ hao phí rất nhiều linh lực, những kẻ tu vi thấp kém có khi còn phải lấy mạng đổi mạng, bởi thế tuy Thần tộc sống lâu ngàn tuổi nhưng số lượng hết sức ít ỏi. A Hành dùng thuốc làm chậm ngày sinh, giữ đứa nhỏ trong cơ thể mình, chính là đảo ngược tự nhiên, vô cùng hại sức khỏe, may sao nàng tinh thông y thuật, lại có Thiếu Hạo linh lực cao cường ở sát bên mình bảo hộ nên mới tai qua nạn khỏi.
Tuy giữ được tính mệnh, nhưng từ sau khi sinh con, thân thể A Hành bị tổn thương nghiêm trọng, mê man suốt ngày. Hằng đêm, Thiếu Hạo đều mang nàng tới Thang cốc, để nàng ngâm mình xuống nước. Dù bận rộn tới đâu y cũng phải tự tay chăm sóc A Hành, nhất định không cho người khác nhúng tay vào, chỉ để thị nữ Bán Hạ phụ mình lau rửa thân thể nàng hoặc thay đổi y phục mà thôi.
Thiếu Hạo đặt tên đứa nhỏ là Tiểu Yêu, Tiểu Yêu vừa chào đời thì mẹ đã hôn mê bất tỉnh, được Thiếu Hạo hết lòng chăm chút, luôn đem theo bên mình, khiến trong triều ngoài nội ai ai cũng biết y yêu thương Trưởng vương cơ. Hơn một năm sau, Tiểu Yêu bắt đầu bi bô tập nói, A Hành mới dần dần tỉnh lại.
Thiếu Hạo bước vào tẩm điện, liền trông thấy A Hành đang ngả mình trên sập đùa với Tiểu Yêu.
Tiểu Yêu tay nắm một chiếc chuông bạc, vừa trông thấy Thiếu Hạo, cô bé liền nhoẻn cười vươn tay đòi bế, cánh tay trắng nõn như ngó sen vung vẩy chiếc chuông leng ca leng keng. Thiếu Hạo bế xốc Tiểu Yêu lên, cô bé níu lấy cổ y cười khanh khách, tiếng cười trong vắt, khiến người ta quên hết mọi buồn phiền.
Thiếu Hạo tươi cười bảo: “Hôm đó nàng mê man bất tỉnh, Tông Bá[2] đến hỏi tên con, ta sực nhớ hồi còn làm thợ rèn, từng nghe dân bản địa hát một khúc dân ca, giờ cũng quên gần hết rồi, chỉ còn nhớ câu đầu tiên là: “đào chi yêu yêu, chước chước kỳ hoa[3], bèn thuận miệng đặt nhũ danh cho con là Tiểu Yêu. Tông Bá đã đến thôi thúc hỏi tên con mấy lần rồi, nếu nàng thấy trong mình khỏe khoắn thì nghĩ một cái tên đi.”
[2] Tông Bá: quan thời cổ của Trung Quốc, coi giữ chuyện lễ nghi, phụ giúp đế vương cai quản việc trong tông thất, nắm giữ việc tế lễ tổ tiên, đồng thời quản tất cả phép tắc lễ nghi trong tông miếu và tông tộc.
[3] Nghĩa là: Mơn mởn đào non, rực rỡ nở hoa, trích từ bài Đào yêu trong Kinh Thi. (ND)
A Hành vừa giỡn với Tiểu Yêu, vừa ngẫm nghĩ hồi lâu rồi đề nghị: “Gọi là Cửu Dao đi!”
Thiếu Hạo hỏi lại: “Cửu Yêu ư? Cửu trong Cửu Lê, Yêu trong đào chi yêu yêu ấy hả?”
“Không phải, là hai chữ này.” A Hành viết lên giường hai chữ Cửu Dao cho Thiếu Hạo xem.
[4] Hai chữ “yêu” và “dao” trong tiếng Trung Quốc phát âm gần giống nhau, đều là “yao”, chỉ khác về thanh, nên Thiếu Hạo hiểu lầm. (ND)
Cửu Dao lên ba, Thiếu Hạo bèn chiếu cáo thiên hạ, sách phong làm Trưởng vương cơ, hưởng bốn trăm thực ấp. Tuy là con gái, nhưng dù sao cô bé cũng là con đầu lòng của Tuấn Đế Cao Tân nên tiệc mừng được tổ chức vô cùng long trọng, kéo dài suốt ba ngày.
Ngày đầu tiên cử hành nghi lễ bái tế trời đất, chúc phúc cho Cửu Dao.
Ngày thứ hai bày tiệc mời vương thất trong Thừa Ân cung, mọi người trong Cao Tân tộc đều tụ họp lại, ăn uống linh đình, nói cười vui vẻ ồn ào.
Trung Dung cắp hồ lô rượu loạng choạng đến trước mặt Thiếu Hạo, mượn rượu giả say nói nhăng nói cuội trước mặt mọi người: “Cửu Dao là cháu gái lớn, thế mà ba tuổi rồi vẫn chưa được gặp mặt phụ vương. Trong triều đồn rằng phụ vương bị ép dọn tới Kỳ viên, chứ không phải tự nguyện, mấy năm nay, chúng đệ chẳng ai được gặp Người, thậm chí đại lễ long trọng như hôm nay cũng chẳng thấy phụ vương tham dự, lẽ nào có chuyện gì đó không thể gặp mặt mọi người ư?”
Lời này vừa buông ra, cả đại điện tức thì im phăng phắc, những tên nhát gan nhất loạt cúi gầm mặt xuống, không dám ngẩng lên, trong khi đó hai mươi mấy người em trai của Thiếu Hạo đều trừng trừng đổ dồn mắt vào y, như hổ đói rình mồi.
A Hành thầm kinh hãi, nàng không sao ngờ được mâu thuẫn giữa Thiếu Hạo và các em lại gay gắt đến nỗi Trung Dung chẳng nề mất mặt, dám buông lời phạm thượng ngay trước mặt mọi người. Có điều chiêu này của y thật vô cùng nham hiểm, hôm nay vương thất Cao Tân đều tề tựu nơi đây, hễ Thiếu Hạo sơ sảy một câu, chứng tỏ tội danh bức cung thoái vị, giam cầm phụ vương là có thực thì dù có dựa vào binh hùng tướng mạnh để giữ vững ngai vị, y cũng mất hết lòng dân, bị người người phỉ báng.
Trước tình thế ngàn cân treo sợi tóc, Thiếu Hạo vẫn thản nhiên cười đáp: “Phụ vương bệnh nặng nên dời đến Kỳ viên thanh tâm tĩnh dưỡng, không gặp mọi người đó thôi, ai bảo đệ là hôm nay phụ vương không tới? Chẳng qua sức khỏe Người còn yếu nên tới muộn một chút, không tin đệ đợi một lát nữa có thể gặp trực tiếp hỏi phụ vương.”
Thiếu Hạo còn chưa dứt lời, mấy tên tùy tùng đã khiêng một cái sập mềm bước vào, Tuấn Đế đời trước đang nghiêng mình ngồi trong đó.
Mọi người trong đại điện xôn xao đứng cả dậy, đám Trung Dung càng xúc động hơn ai hết, rưng rưng nước mắt nhìn phụ vương.
Sập của Tuấn Đế vừa được đặt xuống cạnh Thiếu Hạo, mọi người trong điện đều nhất loạt quỳ xuống hành lễ, nhưng chẳng biết phải xưng hô thế nào, đành dập đầu ba cái mà thôi.
Tuấn Đế mỉm cười vẫy ta ra hiệu cho tất cả đứng lên. Lời nói cử chỉ của ông vẫn hệt như vị công tử tiêu sái thuở nào, chỉ có điều mái tóc đã bạc phơ, gương mặt nhăn nheo vì tuổi tác.
Trung Dung quỳ sụp xuống trước mặt Tuấn Đế, nghẹn ngào hỏi: “Phụ vương, Nhị ca và mẫu hậu đều bị giam dưới Ngũ Thần sơn, đây là ý chỉ của Người sao?”
“Là ý của ta, Yến Long phản bội ta, thay thế toàn bộ thị vệ trong cung, toan giám sát ta hằng ngày, tội không thể tha được.”
Trung Dung khóc òa lên: “Nhị ca quyết không có ý bội phản phụ vương đâu, chỉ là Nhị ca sợ…” Trung Dung liếc nhìn Thiếu Hạo, nuốt vội nửa câu sau xuống. Tuấn Đế liền kết thúc chủ đề: “Con lui xuống đi, hôm nay là ngày đại hỷ, đừng nhắc mấy chuyện không vui này nữa.”
Thấy Trung Dung vẫn chần chừ không chịu lui, hai tên thị vệ bèn tiến lại kéo hắn xuống, nào ngờ hắn níu chặt lấy áo Tuấn Đế hỏi dồn: “Phụ vương mắc bệnh phải nhường ngôi cho Thiếu Hạo thật ư? Hôm nay tất cả huynh đệ chúng con đều có mặt ở đây, Người hãy chính miệng nói rõ với mọi người đi!”
Câu hỏi thẳng thừng mà sắc bén này của Trung Dung vừa thốt ra, cả đại điện tức thời lặng ngắt như tờ, nghe được cả tiếng cây kim rơi xuống đất. A Hành ngồi bên sợ cứng cả người, chỉ cần một lời của Tuấn Đế thôi, Thiếu Hạo sẽ trở thành tội nhân thiên cổ, mọi công lao đều đổ sông đổ biển hết.
Tuấn Đế nghiêm giọng hỏi: “Rốt cuộc kẻ nào ở sau lưng đâm bị thóc chọc bị gạo, đơm đặt chia rẽ cha con ta thế? Năm xưa tất cả danh y cung đình cùng thầy thuốc dân gian mà các con tiến cử đều đã thăm bệnh cho ta rồi kia mà, quả thực ta thân mang trọng bệnh, không thể xử lý quốc sự nên mới thoái vị nhường ngôi cho Thiếu Hạo, chẳng lẽ các con thấy mình tài giỏi hơn Thiếu Hạo ư?”
Nói rồi Tuấn Đế đưa mắt nhìn khắp lượt hai mươi mấy người con trai, nhìn đến đâu, họ quỳ rạp xuống đến đó.
Trung Dung hét lên: “Con không tin! Phụ vương, trong chuyện này nhất định có gì mờ ám, Người đã chính miệng nói với mẫu hậu rằng muốn truyền vương vị lại cho…”
Thiếu Hạo trừng mắt nhìn đám thị vệ, lập tức bọn chúng xúm vào giằng tay Trung Dung khỏi vạt áo Tuấn Đế, lôi ra ngoài điện, không để hắn kịp nói hết câu.
Tất cả mọi người trong điện đều nín thin thít, không một ai dám ho he, cả đại điện chỉ nghe thấy tiếng gào khóc của Trung Dung vẳng lại.
Thấy không khí căng thẳng, A Hành bèn quay sang dặn nhỏ Bán Hạ: “Mau bế Cửu Dao ra đây.”
Thị nữ bồng Cửu Dao tới trước mặt Tuấn Đế. Tuấn Đế cúi đầu ngắm cô bé thiêm thiếp ngủ hồi lâu, khẽ đưa tay vuốt ve gương mặt non tơ, ánh mắt đầy trìu mến. Mọi người xung quanh được thể liền xúm lấy nịnh nọt tâng bốc: “Trông vương cơ giống ông nội quá chừng!”
Tuấn Đế ngẩng lên bảo Thiếu Hạo: “Nhớ năm xưa cung nữ bế con tới trước mặt ta, chúc mừng ta vừa có một đứa con trai, ai nấy đều khen con giống ta như tạc. Càng lớn, con càng giỏi giang xuất sắc khiến người ta không thể không thương, ta yêu con đến nỗi chẳng biết phải làm sao cho đúng, muốn ôm con cũng sợ l