A Hành hành lễ với hắn, “Ta tới xin gặp Vu vương.”
Gã thanh niên nhìn nàng, thầm cảnh giác, “Vu vương không gặp người ngoài đâu.”
“Ta tới xin chữa bệnh.”
Gã trai bật cười, “Những kẻ từ nơi khác đến như các người, hễ nhắc tới chúng ta chỉ gọi là dã nhân, còn chẳng buồn kêu cái tên Cửu Di hàm ý khinh miệt kia nữa, đám dã nhân chúng ta ở đây làm sao biết y thuật gì được? Mời cô về đi thôi!”
A Hành biết các Vu sư ở đây khác hẳn những người dân cả đời quẩn quanh trong bản, rất có thể họ đã từng đi ra ngoài nên hiểu chuyện, chính vì hiểu lại càng đề phòng hơn.
Nàng bất đắc dĩ nói, “Ta nhất định phải gặp Vu vương, đành mạo phạm vậy!” Nói rồi, A Hành lướt qua gã thanh niên kia hệt như một con chạch, xông thẳng vào sân, chẳng đợi bọn họ kịp phản ứng, nàng đã cắm đầu chạy dọc theo con đường lát đá trắng.
“Bắt cô ta, mau bắt cô ta lại.”
Mặc cho cả đám người đuổi sau lưng, lại thêm bao nhiêu kẻ từ trong nhà ùn ùn xông ra chặn đường, A Hành vẫn nhanh nhẹn như một chú hươu non, né được hết mọi sự truy bắt, chạy thẳng tới hậu sơn, tại đây nàng trông thấy một đài tế trắng toát đứng sừng sững mộc mạc mà trang nghiêm.
A Hành chạy thẳng một mạch lên đài tế rồi nhoẻn cười ngoảnh lại nhìn, thấy tất cả Vu sư đều dừng lại không dám bước lên đài. Đây là thánh địa để tế trời đất, ngay đến Vu sư cũng chưa chắc đủ tư cách tiến vào.
Mặc bọn họ giận dữ trừng mắt nhìn mình, A Hành chỉ khoanh tay tủm tỉm hỏi: “Liệu bây giờ Vu vương có chịu gặp ta không đây?”
Một lão già râu tóc bạc phơ chống gậy bước tới, ánh mắt toát lên vẻ kiên định mà thông tuệ, “Cô nương, chúng ta kính sợ trời đất không phải vì ngu muội dốt nát, mà bởi chúng ta tin rằng con người phải có lòng biết ơn và kính sợ thì mới có thể hòa hợp với đất trời vạn vật được.”
A Hành đáp: “Vu vương, ta tới đây để tìm gặp ngài, chứ không phải để lăng nhục các người. Giờ thì ta yên tâm rồi, có chuyện này ta muốn cậy nhờ ngài, ngài bảo những người khác lui ra được không?”
“Đây đều là người trong tộc của ta, cô có chuyện gì cứ nói thẳng ra, đừng ngại.”
Nghe lão nói vậy, A Hành đành thở dài, ngoảnh mặt về phía núi huýt gọi một tiếng. Theo tiếng huýt của nàng, một bóng trắng bỗng xẹt ngang bầu trời như sao, rồi đỗ xuống đài tế. Đó là một con chim toàn thân trắng muốt, cao hơn một thước, cặp mắt ngạo nghễ màu lục bích lướt qua cả đám Vu sư như đánh giá.
Đám Vu sư thấy thế càng thêm tức giận, mấy Đại vu sư được quyền bước lên đài tế chỉ muốn xông tới bắt lấy A Hành, nhưng Vu vương lại giơ tay ngăn cản, tỏ ý bảo bọn họ hãy nghe kỹ đã.
Chẳng biết gió từ đâu bỗng nổi lên khiến những chiếc chuông gió bằng xương thú treo trên đài tế kêu leng keng, ban đầu chỉ là ngân nga khe khẽ, dần dà, tiếng chuông càng lúc càng to hơn, hòa cùng thế gió mỗi lúc một mạnh.
Trong tiếng lanh canh điên cuồng của chuông gió, giữa không trung bỗng hiện ra một bóng đen khổng lồ, là một con hồ ly to lớn, diễm lệ lạ thường, không ngừng bay vòng vòng xung quanh, cuốn theo cuồng phong cuồn cuộn thốc lên, bao bọc cả đài tế.
Giữa lúc đám Vu sư đang há hốc miệng kinh ngạc nhìn hồ ly bay, con chim trắng kia còn sợ họ chưa chịu đủ chấn động, liền há mỏ khạc ra lửa, lửa đỏ, lửa lam, lửa vàng… Từng cuộn lửa bảy sắc bùng lên giữa trời đêm như những đóa hoa tuyệt đẹp, tỏa ánh sáng rực khiến cả đài tế toát lên vẻ mỹ lệ trang nghiêm như cung điện của thần tiên, mà thiếu nữ áo xanh lại đứng ngay giữa khung cảnh kỳ ảo ấy.
Thấy vậy Vu vương bèn căn dặn mấy câu, lập tức đám người vây quanh đài tế tản cả ra, chỉ còn lại mấy Vu sư lớn tuổi.
Vu vương nghiêm trang hỏi: “Cô nương đến từ Thần tộc ư? Chẳng hay cô tới đây có chuyện gì vậy?”
A Tệ đỗ xuống bên cạnh A Hành, nàng liền đỡ Xi Vưu trên lưng nó xuống, hỏi ngược lại: “Không biết Vu vương có nhận ra hắn hay không?”
Trông rõ diện mạo Xi Vưu, Vu vương biến hẳn sắc mặt, lập tức quỳ sụp xuống đất, cả người run lên vì kích động, “Sao lão có thể không nhận ra kia chứ, Vu sư các đời mỗi khi bái sư, trước tiên phải quỳ lạy tượng gỗ của ngài, lập lời thề sẽ bảo vệ bình yên và tự do cho dải nước non này, có điều, có điều… lão thật sự chẳng dám mơ kiếp này mình lại được gặp Xi Vưu đại nhân.”
A Hành nói tiếp: “Hắn bị thương rồi.”
Vu vương vội lê bằng đầu gối tới cạnh Xi Vưu thăm khám vết thương, thận trọng rút một đoạn kiếm gãy ra khỏi người hắn, lại kiểm tra kỹ lưỡng tình trạng trúng độc, vẻ mặt càng lúc càng khó coi.
A Hành nghiêng mình ngồi lên lưng A Tệ định rời đi. Nhận ra nàng lai lịch không tầm thường, Vu vương vội giữ nàng lại, khẩn thiết vật nài: “Cầu xin cô nương ra tay cứu giúp Xi Vưu đại nhân, vết thương của đại nhân nặng lắm, kiếm khí ngưng tụ trên kiếm này lại rất đặc biệt. Lão chưa từng thấy kiếm khí lợi hại như vậy bao giờ, còn tẩm cả độc nữa…”
A Hành cầm đoạn kiếm gãy lên xem, thấy trên rìa kiếm chạm nổi hoa văn Huyền điểu, chính là biểu tượng của vương thất Cao Tân, sực nhớ tới thân phận mình, nàng lạnh buốt cả cõi lòng, đưa mắt nhìn Vu vương: “Lão muốn ta giúp hắn ư? Lần đầu tiên giúp hắn, ta bị giam cầm sáu mươi năm, lần thứ hai, ta phải phản bội Đại ca mình.” Nói rồi nàng giơ đoạn kiếm gãy lên, “Thanh kiếm này do vị hôn phu của ta rèn ra, tay nghề rèn kiếm của y rất cao, hẳn vết thương của Xi Vưu khó mà lành được, đây cũng là bội kiếm bên mình Đại ca ta, chính Đại ca đã tự tay đâm kiếm vào ngực Xi Vưu đấy.”
Thấy Vu vương tái mặt, sững sờ nhìn mình, A Hành hỏi tiếp: “Giờ lão còn muốn ta cứu hắn nữa không?”
Vu vương lắc đầu quầy quậy, nàng buông một câu: “Tốt lắm,” rồi vỗ vỗ lên mình A Tệ, A Tệ liền cất cánh cõng nàng bay lên, khiến những chiếc chuông gió quanh đài tế lại được dịp rung lên leng keng một tràng.
Nghe tiếng chuông gió leng keng, A Hành thoáng ngẩn người, thuở còn ở Ngọc sơn, nàng cũng treo dưới hiên nhà một chiếc chuông gió như thế này, giờ đây hồi tưởng lại, dường như những bức thư của Xi Vưu chính là sắc màu duy nhất suốt sáu mươi năm đằng đẵng ấy.
Nhớ tới chuyện cũ, nàng vừa vuốt đầu A Tệ, vừa hỏi: “Ta không hiểu y thuật, ở lại cũng chẳng giúp được gì nhỉ. Người trên đại hoang vẫn lén gọi Vu vương của Cửu Lê tộc là Độc vương, nhất định lão sẽ cứu được Xi Vưu, mày bảo có phải không, A Tệ?”
Chẳng một ai đáp lời nàng, có điều, nàng cũng chỉ muốn thuyết phục bản thân mình mà thôi.
Lúc nàng về tới bản Đức Ngõa, ông lão Đức Ngõa và Mễ Đóa mới ăn xong cơm chưa lâu.
A Hành lên tiếng chào hỏi: “Cháu về ăn cơm rồi đây.”
Thấy nàng trở về, Mễ Đóa vui vẻ đi hâm lại thức ăn, trong khi ông lão cười khà bảo: “Sáng mai lão nói với trưởng bản một tiếng rồi sẽ đưa cô tới bản Xi Vưu.”
“Không cần đâu, cháu đã giải quyết xong việc rồi, khỏi cần tới bản Xi Vưu nữa.”
“À, thế thì hay quá.”
Người Cửu Lê nấu rượu rất ngon, Ca tửu của họ nồng nàn ngọt lịm khiến A Hành vừa uống đã mê, thấy nàng thích thú, ông lão càng thêm vui vẻ, cười đến rung cả râu.
Trước sự thết đãi nhiệt tình của ông lão và Mễ Đóa, A Hành đã được ăn một bữa tối cực kỳ thịnh soạn.
Trong lúc chuyện trò, A Hành biết được Mễ Đóa tuổi đã lớn, đáng lẽ phải lấy chồng từ lâu nhưng con dâu của ông lão ốm nặng, nằm liệt giường, quanh năm mọi chuyện lớn nhỏ ở nhà đều trông vào Mễ Đóa, bởi thế mà cô lần lữa chưa chịu gả đi.
Phòng của Mễ Đóa là gian phòng đẹp nhất trong nhà, cô nhường lại cho A Hành.
Người Cửu Lê luôn dành cho khách những gì tốt đẹp nhất, đây là đạo đãi khách của họ, cảm nhận được điều đó, A Hành chẳng còn cách nào khác hơn là tiếp nhận.
Rửa mặt xong xuôi, nàng bèn ra ngồi trước bàn trúc hong tóc.
Vành trăng non nhạt nhòa treo giữa nền trời đen thẫm, gió đêm từ trên núi đưa xuống mang theo hương thơm cây cỏ, khe suối gần đó róc rách chảy như đang ngân nga một khúc nhạc đồng quê.
Một người đàn ông từ dưới núi đi lên, ngồi xuống tảng đá lớn bên bờ suối thổi sáo.
Bỗng cửa nhà cót két hé ra, Mễ Đóa nhanh như sóc chạy về phía con suối, thoáng chốc, A Hành trông thấy hai bóng người ôm chầm lấy nhau.
Loáng thoáng nghe thấy tiếng chuyện trò.
“Khách ăn cá ta bắt có thích không?”
“Thích lắm, luôn miệng khen ngon.”
“Đó là tại muội nấu ăn ngon.”
Hai người cứ thế dìu nhau mà lên núi.
A Hành chợt nhoẻn cười, đưa mắt trông về phía núi xa, thầm nghĩ, chàng như cây lớn, thiếp tựa dây mây, cây lớn che chở cho dây mây, dây mây quấn quýt quanh cây lớn, gió táp mưa sa vẫn chẳng rời, mãi mãi bên nhau hoài khăng khít.
Phòng bên chợt vang lên tiếng ho sù sụ, cùng tiếng uống nước ừng ực.
Ông lão đã tỉnh rồi, liệu lão có biết cháu gái mình lén lút hẹn hò với bạn tình không nhỉ?
A Hành thấy hơi thắc mắc, nhưng cũng chẳng lấy thế làm lo lắng. Nam hoan nữ ái vốn là chuyện tự nhiên trong trời đất, chỉ là ở vùng này, nó vẫn giữ nguyên những nét ban sơ thuần phác mà thôi.
Chẳng hiểu sao hình bóng Xi Vưu lại hiện ra trước mắt nàng, hắn đã lớn lên giữa một vùng non nước thế này ư? Liệu hắn có biết đánh cá không? Hắn cũng biết hát những khúc sơn ca lanh lảnh mà tình tứ như vậy sao? Hắn đã từng hát cho ai nghe chưa nhỉ…
Đêm đó A Hành gối đầu lên những gió mát trăng trong giữa núi rừng, chìm vào giấc mộng thơm ngây ngất.
Sáng hôm sau, tiếng gà trống gáy le te đánh thức nàng dậy.
Bình minh ở đây chẳng hề đượm vẻ tịch mịch chết chóc như trên Ngọc sơn, cũng không có loan kêu phượng hót líu lo êm tai như tại Triêu Vân phong.
Sáng sớm ra mọi người gặp nhau đều niềm nở hỏi chào, tiếng mấy cô thiếu nữ lao xao hẹn nhau đi hái dâu, tiếng đám đàn ông lấy công cụ loảng xoảng, tiếng các bà mẹ cao giọng mắng con, tiếng đám trẻ khóc lóc ầm ĩ hòa cùng tiếng bò rống ò ò, dê kêu be be và gà mái cục ta cục tác…
Rất ồn ào! Nhưng…
A Hành mỉm cười, nhưng cũng đầy sức sống!
Nàng còn gặp cả mẹ của Mễ Đóa, bà đau ốm quanh năm, bị bệnh tật giày vò đến nỗi chỉ còn da bọc xương, chẳng nói nổi một câu hoàn chỉnh.
A Hành cũng biết người yêu của Mễ Đóa tên là Kim Đan, hai hôm nay không ở trong bản, theo lời Mễ Đóa thì y sang bản khác tìm vợ. Nghe vậy A Hành kinh ngạc, “Chẳng phải hai người là… Cô không giận sao?”
Mễ Đóa cười khổ lắc đầu, “Mẹ tôi nằm liệt giường, em trai còn nhỏ dại, giờ đây tôi là người phụ nữ duy nhất trong gia đình, cả nhà không thể không có tôi được, y đã đợi tôi bốn năm rồi, chẳng thể đợi thêm nữa đâu.”
“Vậy hai người phải chia tay sao?”
“Ừm, sau này y phải đối tốt với người con gái khác thôi.” Mễ Đóa lộ vẻ buồn rầu nhưng vẫn gượng cười đáp.
“Cô biết hai người phải chia tay mà đêm đến vẫn… vẫn lén lút hẹn gặp y ư?” A Hành thắc mắc.
Mễ Đóa vô cùng kinh ngạc, cô ta cũng không sao hiểu nổi A Hành, “Chính vì chúng tôi phải chia tay nên mới nắm lấy mọi cơ hội được ở bên nhau, gắng hết sức mà gặp gỡ.”
A Hành không nói rõ được quan điểm của Mễ Đóa đúng ở chỗ nào, nhưng cũng không biết là sai ở đâu cả. Có lẽ, tại vùng rừng núi cách xa thế tục này thì quan điểm đó đúng, còn ở chốn phồn hoa đầy những phép tắc lễ nghi thì quan điểm đó lại sai.
Nàng không muốn Kim Đan rời xa Mễ Đóa nhưng cách duy nhất để Mễ Đóa có thể lấy Kim Đan là trong nhà phải có thêm một người phụ n