Bạn, tôi sẽ phải đối mặt với những thăng trầm trong cuộc đời
Đến chân trời, góc biển
Ngoài thời gian
Bạn, tôi đều không nhìn rõ đường
Sóng vai ngồi trên bậc thềm phủ đầy cánh hoa đào rơi ngoài lớp học.]
Vận mệnh xoay chuyển
Tôi và Trần Kính vốn là hai đường thẳng song song, nhưng vì cậu ấy chọn ngồi cùng bàn với t vận mệnh của chúng tôi có giao nhau.
Tuy rằng nguyên nhân khác nhau, nhưng Trần Kính và tôi đều không nghe giảng trên lớp
. Có điều cậu ấy là học trò giỏi, chỉ có thể ngẩn người trong khi vẻ mặt vẫn không đổi, mà học trò hư tôi đây lại có thể ngẩn người, ngủ, đọc tiểu thuyết. Thời gian đó, thế giới truyện làm tôi trầm mê mà không thể tự kềm chế, vì vậy phần lớn thời gian tôi đều đọc tiểu thuyết. Trần Kính rất hay ngẩn người, đôi khi khóe mắt cậu cũng đảo qua phía tôi, chắc là đang hoang mang với chuyện tôi siêng năng rồi. Sau đó, khi chúng tôi quen nhau một chút, cậu ấy hỏi tôi đọc những sách gì, khi cậu nghe được “Tiết Nhân Quý chinh đông”, “Tiết Đinh Sơn chinh tây”, “Tiết Cương phản đường”, [1] “Văn học dân gian”. . . v.v đủ tên sách, thì biểu tình cậu thật sự khó coi, bởi vì tất cả những tên đó cậu ấy đều chưa nghe thấy, thật sự hổ thẹn với cái danh thần đồng. Nghe tới “Hồng Lâu Mộng”, sắc mặt cậu ấy mới bình thường một chút, nhưng mà ngay sau đó lại mang vẻ ngạc nhiên nói: ” ‘Trẻ không xem Hồng Lâu, già không đọc tam quốc’, bố cậu cho phép cậu đọc “Hồng Lâu Mộng” à?”
Chú thích:
[1]“Tiết Nhân Quý chinh đông”: Nội dung truyện nói về đời nhà Đường, lúc vua Đường Thái Tông đang trị vì. Có thể nói đây là thời kỳ oanh liệt nhất của nước Trung Hoa. Bởi dân tộc Hán hùng mạnh đã không những chiếm cứ cả Trung Nguyên mà còn mở mang bờ cõi ngày một rộng lớn.
Tiết Nhân Quý là một anh hùng áo vải, tài năng xuất chúng, sống trong giới tiểu thương, từ cuộc sống khá giả đi đến suy sụp nghèo khó, bị đời hất hủi phải đem thân đi làm thuê làm mướn kiếm sống. Rồi từ đó mà tiến thân.
Tiết Nhân Quý đầu quân, giúp vua giúp nước. Chỉ vì sợ một lời dọa mà phải trốn trong bóng tối để Trương Sĩ Quý lợi dụng. Trương Sĩ Quý là kẻ bất tài vô dụng, gian nịnh, hám danh… Từ một chức vụ Tổng binh nhỏ nhoi mà ngoi lên địa vị cao hơn nhờ khéo luồn lọt và cướp công kẻ khác.
Đọc Tiết Nhân Quý ta thấy được mong ước của người xưa là muốn có một minh quân như vua Đường, có những tôi thần xuất sắc như Từ Mậu Công… và châm biếm kẻ dốt nát như Huất Trì Cung.
Điểm tiến bộ của truyện là ít thần thánh hóa mà có nhiều tình tiết thực tế hơn. Một vài chi tiết có vẻ thần thoại, nhưng đó là lẽ đương nhiên của xã hội phong kiến Trung Hoa còn đè nặng và ước mơ của quần chúng thì bay bổng.
“Tiết Cương phản đường”: Tiết gia vốn được coi là rường cột của Đại Đường, liên tiếp 2 đời Đông chinh Tây phạt, công cán hiển hách. Nhưng trên đời có câu” Nhất tướng công thành vạn cốt khô”, Tiết Nhân Quý và Tiết Đinh Sơn qua hai lần nhận lãnh ấn soái mở cuộc chinh đông và chinh tây tuy đem lại bình yên cho xã tắc nhưng quy ra thì cũng tạo ra bao vạn oan hồn oán khí bám theo nhà họ Tiết. Đại Nguyên soái Tây Liêu Dương Phàm, sau khi bị vợ chồng Tiết Đinh Sơn và Phàn Lê Huê giết chết oán khí không dứt đã đầu thai vào thành con trai của hai người. Phàn Lê Huê thấu hiểu thiên cơ biết được con trai ruột của mình Tiết Cương chính là do Dương Phàm đầu thai hòng mong tru diệt nhà họ Tiết. Lê Huê vì muốn trừ diệt tâm ma cho con cắt đi mối nguy cho nhà họ Tiết nào ngờ ý trời đã định khó thể khiên cưỡng cuối cùng bị con trai mình vô tình hại chết.
Tiết Cương trong hội hoa đăng, lỡ tay đánh chết con riêng của Thái Hậu Võ Tắc Thiên khiến cho họ Tiết bị tru di tam tộc, còn bản thân phải bôn đào. Nhờ sự giúp đỡ của Quán Chủ Vĩnh Thái, dần dần Tiết Cương đã trừ được tâm ma của mình, đứng lên chiêu binh chống lại Võ Tắc Thiên (lúc này đã lên ngôi hoàng đế) hòng báo thù nhà và chấn hưng Đại Đường….
Tiểu Dương: Chương 4 đã nói đến tên những tác phẩm này rồi, bây giờ mình chú thích thêm. Nhân vật Tiết Nhân Quý, bản truyện dịch ở Việt Nam là Tiết Nhơn Quý. Các bạn có thể vào đây để download ebook truyện: http://www.e-thuvien.com/forums/showthread.php?t=3867. Truyện này cũng được dựng phim, phim cũ rồi.
Lần đầu tiên tôi nghe thấy câu nói ấy, ngây ngốc đáp: “Tớ không biết, bố mặc kệ tớ xem sách gì, dù sao trên giá sách có, tớ liền đọc thôi.”
Cậu ấy suy nghĩ trong chốc lát rồi thương lượng với tôi: “Mang “Hồng Lâu Mộng” ở nhà cậu cho tớ mượn đọc một chút, tớ cũng mượn một bộ sách cho cậu.”
Thế là tôi mang bộ “Hồng Lâu Mộng” cho cậu ấy mượn, nhà xuất bản văn học Nhân Dân xuất bản năm bảy chí một bộ có bốn cuốn, cậu ấy thì cầm một cuốn sách cổ của nhà xuất bản Thượng Hải, “Kinh Thi” [2] đến cho tôi. Cậu ấy đọc bộ “Hồng Lâu Mộng” rất nhanh, sau đó bĩu môi trả lại cho tôi, biểu tình như kiểu nó chỉ có thế thôi sao. Cậu ấy lại lướt qua cuốn “Tiết Nhân Quý chinh đông”, còn chưa xem xong đã trả lại cho tôi rồi. Từ đó, toàn là tôi mượn sách của cậu ấy, còn cậu ấy thì chẳng có chút hứng thú gì với bộ sách của tôi, cậu ấy đã vô tình dẫn đường cho tôi đến với những tác phẩm văn học xuất sắc.
[2] Kinh Thi (tiếng Hán : 詩經 ; tiếng Anh : Classic of Poetry hoặc Book of Odes, The odes) là một bộ tổng tập thơ ca vô danh của Trung Quốc, một trong năm bộ sách kinh điển của Nho giáo. Các bài thơ trong Kinh Thi được sáng tác trong khoảng thời gian năm trăm năm, từ đầu thời Tây Chu đến giữa thời Xuân Thu, gồm 311 bài thơ. Kinh Thi chia làm ba bộ phận lớn là Phong, Nhã và Tụng. Nguồn gốc các bài thơ trong Kinh Thi khá phức tạp, gồm cả ca dao, dân ca và nhã nhạc triều đình, với các tác giả thuộc mọi tầng lớp trong xã hội đương thời. Từ lĩnh vực dân gian, âm nhạc được chuyển sang lĩnh vực thành văn rồi thành kinh tịch, Kinh Thi đã trải qua quá trình sưu tầm, chỉnh lý, biên soạn khá phức tạp.
Cậu ấy cho tôi mượn cuốn “Kinh thi” không có chút chú thích nào, tôi đọc thật sự vất vả, rất nhiều chỗ đọc không hiểu gì, nhưng cậu ấy lại không giải thích cho tôi, chỉ nói cho tôi, thơ văn không cần hiểu từng chữ từng câu, chỉ cần nhớ kỹ nó, đến một ngày nào đó, trong một thời khắc nào đó, dưới một cảnh tượng nào đó, ý nghĩa của nó có thể tự hiện ra. Tôi không biết lời này là do bố cậu ấy nói cho, hay chỉ là cậu ấy lười giải thích mà lấy đại một cớ.
Vì đọc vất vả lại không có chút thú vị gì, thế nên tôi sẽ không muốn đọc, nhưng khi bạn Trần Kính kia nhàm chán với kiếp sống thần đồng, thì lại đi tìm kiếm một thú tiêu khiển mới, đó chính là kiểm tra tôi. Cậu ấy thường tùy ý nói ra một câu, muốn tôi đối câu tiếp theo; hoặc là cậu ấy tụng một nửa, tôi ngâm nốt nửa sau. Nếu tôi đối được, vẻ mặt cậu ấy sẽ không sao c đương nhiên phải như vậy mới đúng, còn nếu tôi không đối được, cậu ấy lại khinh miệt nhìn tôi lắc lắc đầu. Trẻ con đều có tính hiếu thắng, huống chi là so với một vị thần đồng thế này, vì thế dưới trò chơi khích lệ ấy của cậu, dần dần tôi đã đọc thuộc hết bản “Kinh thi”.
Lúc đầu, tôi chỉ là trò tiêu khiển cho sự nhàm chán của cậu ấy thôi, nhưng dần dần thấy sự quật cường của tôi, cậu ấy cũng hiểu ra, tôi không giống như những bạn học khác và giáo viên, đều yếu quý, sùng bái đối với thần đồng. Vì thế, hai đứa chúng tôi bắt đầu một cuộc so đo cố ý mà cũng vô tình.
Khóa học buổi sáng đại khái đều trải qua như thế này, yêu cầu đầu tiên là ngâm nga một bài văn, giáo viên sẽ cho chúng tôi hai mươi phút hoặc trên dưới nửa giờ, yêu cầu chúng tôi phải học thuộc lòng, khi hết thời gian có thể sẽ kiểm tra thí điểm vài bạn. Trong thời gian dự định đó, ai có thể học thuộc lòng trước, thì có thể giơ tay lên, ngâm nga cho cả lớp nghe, thời gian càng ngắn, chính xác càng cao, thì càng vinh quang hơn.
Từ trước tới giờ Trần Kính luôn khinh thường không tham gia vào trò so đo ấy, bởi vì trí nhớ của cậu thực sự rất kinh người, các bài văn thơ trong sách giáo khoa, cậu đều thuộc hết, cậu ấy từng nửa đùa nửa khoe với tôi, “Đem sách ngữ văn lại đây, tất cả bài trong đó tớ đều có thể đọc thuộc lòng cho cậu nghe.” Chính vì vậy, khi cô giáo yêu cầu chúng tôi ngâm nga bài khóa, cậu thật sự rất nhàm chán, các bạn trong lớp đều đang lẩm nhà lẩm nhẩm đọc, còn cậu thì cầm sách giáo khoa ngẩn người.
Tuy nhiên, có người ngồi cùng bàn không nghe giáo viên giảng là tôi, cậu ấy rất nhanh đã thoát khỏi nhàm chán và ngẩn người. Cậu ấy mang những bài thơ không biết sao chép từ đâu đến, muốn thi thố với tôi, đấu xem ai là người thuộc được bài thơ đó trong thời gian ngắn nhất.
Thơ văn cậu ấy tìm được thú vị hơn trong sách giáo khoa nhiều, tôi vừa tham đọc những bài thơ văn đó vừa có tính hiếu thắng, thế nên đồng ý ngay. Từ đó, giờ học buổi sáng, hai đứa sẽ vội vàng thi đua. Không có gì ngạc nhiên, kết quả trận đấu thường là tôi mới lẩm nhẩm được vào đoạn thì cậu ấy đã nói cho tôi biết, mình có thể đọc thuộc cho tôi nghe rồi.
Tôi nghĩ mãi không ra, vì sao cậu ấy có thể đọc nhanh như vậy được. Không nghĩ ra, tôi liền học hỏi mà không chút ngại ngần.
Trần Kính không trực tiếp trả lời vấn đề của tôi, mà là dùng giọng điệu khinh thường của riêng mình nói ra một thành ngữ:
Trong miệng giáo viên, đọc nhanh như gió vẫn là nghĩa xấu, bị dùng để trách móc học sinh lười học hành cho có lệ, nhưng Trần Kính nói đọc nhanh như gió có từ “Bắc Tề thư • Hà Nam Khang Thư Vương Hiếu Du”, nguyên văn là “Yêu thích văn học, đọc nhanh như gió, liếc mắt là xong”, đó rõ ràng không có nghĩa xấu, mà là lời ca ngợi từ đầu đến đuôi, câu này đã truyền lại một phương pháp đọc rất nhanh. [3]
[3] Bắc Tề thư là một sách lịch sử theo thể kỷ truyện trong 24 sách lịch sử Trung Quốc (Nhị thập tứ sử) do Lý Bách Dược đời Đường viết và biên soạn vào năm Trinh Quán thứ 3 (năm 629), đến năm Trinh Quán thứ 10 (năm 636) thì hoàn thành.
Tổng cộng có 50 quyển, bao gồm Bản kỷ 8 quyển, Liệt truyện 42 quyển, không có Chí, Biểu, sách ghi chép lịch sử hưng thịnh và suy vong của Bắc Tề và Đông Ngụy thời Nam Bắc Triều.
Cha Lý Bách Dược là Lý Đức Lâm, có viết bộ sử với tên gọi Bắc Tề sử gồm 27 quyển, đến thời Tùy viết được 38 thiên thì không may lâm bệnh qua đời, Lý Bách Dược căn cứ theo sách của cha và tham khảo thêm cuốn Bắc Tề chí của Vương Thiệu mà hoàn thành bộ chính sử Bắc Tề thư, sách không có phần truyện về các nước ở bên ngoài Trung Quốc.
Số lượng văn bản trong sách của Lý Bách Dược hiện chỉ còn 18 quyển, các quyển 4, 13, 16-25, 41-45, 50 đến nay đều bị thất lạc, người đời sau lấy từ bộ Bắc sử mà bổ sung thêm vào, tên gốc ban đầu của sách là Tề thư sau đến đời Tống nhằm phân biệt bộ Nam Tề thư của Tiêu Tử Hiển nên đổi tên thành Bắc Tề thư.
Theo Lưu Tri Kỷ trong Sử thông, thì ông cho rằng Bắc Tề thư có phần kém cỏi hơn Bắc Tề chí của Vương Thiệu và Quan Đông phong tục truyện của Tống Hiếu Vương, bộ chính sử này đa phần không được giới sử học đánh giá cao.
Vẻ mặt tôi mờ mịt, không biết cậu ấy có ý gì. Cậu khinh bỉ nhìn vài lần, khinh thường tôi ngốc nghếch chẳng hiểu gì. Lúc ấy đúng là mười ph nghỉ giữa giờ, cậu cho tôi một ví dụ, “Bây giờ, không những cậu nghe tớ nói chuyện, mà đồng thời còn có thể nghe được Chu Tiểu Văn ở đầu lớp đang nói chuyện về cái váy, nghe thấy tiếng cười của Trương Tuấn ở cuối lớp và còn nghe được cả tiếng nam sinh kêu to ngoài lớp học.”