Nhìn, nghe, bắt mạch. Tôi đã thực hiện xong những bước thăm dò và bước đầu xác định được đúng hướng đi, đầu tiên phải dùng sợi dây da lừa dò đếm số vòng ren của chiếc vít nối với Định tâm cầu, tôi phải tẩn mẩn thao tác nửa tiếng đồng hồ mới tháo được nó ra, phía sau vị trí đó là một mắt khóa nhỏ bằng đầu ngón tay sâu hoắm. Tôi tiếp tục dùng mũi kim móc lùa sợi dây da lừa vào sâu bên trong, dò tìm từng vị trí của hệ thống đinh móc bên trong, rồi dùng chiếc hộp tích lực cắt vài lần.
Tất cả gồm có hai trăm mười sáu chiếc đinh móc cần được cứa đứt từng cái một nên rất mất thời gian. Tôi phải hi sinh tới hơn hai mươi sợi dây lừa và mất trọn một đêm mới mở được chiếc hộp ra. Khi nhìn lên, trời cũng đã rạng sáng, nhưng chúng tôi không một ai cảm thấy mệt mỏi hay buồn ngủ.
Cho tới khi nghe thấy âm thanh quen thuộc của những chiếc vòng xích đang chuyển động, tôi mới chắc chắn rằng chiếc hộp đã được mở ra, trong lòng phấn khích vô cùng, bàn tay tôi run lên vì hồi hộp, không biết trong đó rốt cuộc cất giấu thứ gì.
Lão Ngũ vỗ vỗ vai tôi, mặt mày rạng rỡ, nói:
- Khá lắm, nhóc con, cuối cùng cũng đã chinh phục được chiếc hộp lì lợm này, coi như mi cách Thiên giới không còn xa nữa đâu, hãy để cho lão già này được mở mang tầm mắt nhé. Hay đấy, hay đấy!
Tôi khẽ mỉm cười, thấy lòng nhẹ nhõm đi phần nào, đưa tay sờ lên phần nắp hộp. Cả ba chúng tôi cùng chụm đầu lại nhìn chăm chăm vào mảnh vải nhung đỏ, trong đó có đặt một tấm biển màu đen.
Tấm biển đó to gần bằng thẻ chứng minh nhân dân, dầy chừng một phân, bốn góc được mài nhẵn nhụi, trên bề mặt khắc hoa văn chi chít. Tôi hiếu kì đưa tay nhấc nó lên, cảm thấy khá nặng tay không khác gì một miếng gỗ. Những đường hoa văn được chạm khắc rất tinh xảo với hình sóng nước uốn lượn, chính giữa là ba chữ phồn thể vuông vắn.
Chữ đầu tiên thì tôi nhận ra ngay, chính là chữ “Sở”; chữ thứ hai thì hơi khó một chút, trông nó có vẻ giống chữ “Khinh”, nhưng không dám chắc; còn chữ thứ ba thì tôi hoàn toàn không biết. Lật lại mặt sau thì thấy ở đó có khắc khuôn mặt một cô gái, đường nét khá đơn giản nhưng lại rất có thần, đặc biệt là dải tóc tết phía sau lưng, nhưng sao càng nhìn càng thấy có nét hao hao giống tôi?
Tôi bắt đầu thấy chuyện này thật thú vị, liền quay sang hỏi Lão Ngũ:
- Lão Ngũ, đây là cái gì, cô gái khắc ở mặt sau sao trông giống…
Chưa nói hết câu, tôi đã im bặt, không hiểu sao Lão Ngũ và chị Giai Tuệ lại nhìn tôi chằm chằm, khuôn mặt biểu lộ thần sắc thật khó hiểu.
Thấy thái độ của hai người rất kì quái, tôi vội vàng hỏi họ có chuyện gì.
Lão Ngũ vân vê mấy sợi râu thưa, chỉ vào tấm biển trong tay tôi, giọng trầm hẳn xuống:
- Nhóc con, ba từ đấy chính là tên của mi đấy!
Tôi lập tức ngẩn người, đầu óc ong ong trống rỗng, mắt như dán vào ba chữ khắc trên đó, điều này… điều này… sao lại có thể như vậy chứ?
- Mẹ kiếp, hay đấy! Ít nhất cái này cũng phải có trên dưới bốn mươi năm, thì ra lão Sở cũng biết đường chuẩn bị trước.
Tôi khó nhọc nuốt nước bọt, một cảm giác ớn lạnh bao phủ lên người, bốn mươi năm trước làm gì đã có tôi, tại sao ông nội lại phải làm trước tấm biển này? Tôi lập tức liên tưởng tới chiếc đĩa sứ mang hình sơn thủy, hình như nó cũng là một vật xuất hiện vào thời điểm rất không nên xuất hiện. Thế nhưng nguyên do xuất hiện của chiếc đĩa sứ kia đã được tìm thấy, đó là bị người khác đánh tráo, vậy còn tấm biển mang tên tôi thì giải thích thế nào đây, chẳng nhẽ cũng bị người ta đánh tráo nốt?
- Độ nông sâu của chiếc hộp có gì đó là lạ, chắc phải còn một lớp nữa, Lan Lan, em nhìn lại chiếc hộp xem.
Tôi nhìn vào lòng hộp, quả nhiên, chúng tôi mới mở được một phần ba, đây chẳng qua chỉ là lớp đáy giả mà thôi. Tôi lập tức nhấc lớp đáy ra, phía dưới lại là một lớp vải nhung khác, bên trên đặt một mảnh trúc màu vàng xanh, chiều dài vừa đúng một đốt. Hai đầu mảnh trúc được vạt nhẵn, qua màu sắc và thớ trúc, có lẽ nó đã được đặt vào đây từ rất lâu rồi. Ông nội đã từng dặn, bên trong chiếc hộp này đều là bảo bối của Kiện môn, lẽ nào mảnh trúc này cũng là một trong số đó?
Tôi đang lan man suy nghĩ, thì Lão Ngũ đã nhanh tay nhấc lớp đáy thứ hai lên. Phía dưới cùng đặt một cuốn sách nhỏ mỏng tang màu xanh nhạt, mép hơi quăn và sờn rách, xem ra nó đã rất cũ, trên trang bìa có một khoảng trắng ghi Giải kiện tập lục bằng lối chữ Khải vuông vắn. Nhìn dòng tên sách, nếu tôi đoán không nhầm thì đó là cuốn sách bí truyền ghi lại những kinh nghiệm mở khóa vi diệu mà tổ tiên truyền lại.
Tôi đặt tấm biển đen, mảnh trúc cùng cuốn Giải kiện tập lục lên trên mặt bàn, đờ đẫn nhìn chúng hồi lâu, tại sao tấm biển đen lại khắc tên tôi, và mảnh trúc kia tượng trưng cho điều gì?
Lão Ngũ thò tay cầm cuốn Giải kiện tập lục lên, liếc nhìn tôi rồi nói:
- Nhóc con, nhìn đủ chưa, để lão già này đọc trước xem thế nào nhé!
Tôi chưa kịp trả lời thì lão đã cầm cuốn sách lật giở qua loa vài trang. Tôi tiến lại gần lão, trang sách chi chít những chữ phồn thể to bằng hạt đậu tương, không phân hàng lối, nên không rõ nội dung bên trong viết cái gì. Trang cuối cùng của cuốn sách là hình hai bàn tay đang xòe ra, lòng bàn tay và mười đầu ngón tay chằng chịt những vết sẹo. Có những vết kéo dài, có vết hình tròn, hình tam giác, hình móng ngựa, còn một vài đường rãnh to nhỏ khác nhau, đặc biệt chúng được phân bổ theo một trật tự quy củ, nhưng mỗi tay là một hình khác biệt…
Nhìn hình ảnh đó, tim tôi bỗng đập thình thịch, chỉ vào hình ảnh bàn tay trong sách rồi la toáng lên đầy phấn khích:
- Đây chính là sơ đồ sẹo tay, giống y hệt của ông nội cháu, chính mắt cháu đã nhìn thấy rồi mà.
Lão Ngũ liếc đôi mắt dài và nhỏ ti hí sang tôi, gật gù nói:
- Tay chân chi chít sẹo thế này, mẹ kiếp, cũng thảm thật!
- Chiếc hộp càn khôn này là vật gia truyền của nhà họ Sở, bên trong cất giấu cuốn sách bí truyền thì không có gì đáng nói, nhưng còn tấm biển đen và mảnh trúc thì không thể hiểu nổi. Lão Ngũ, lão thấy sao?
- Để ta xem lại đã, không khéo bên trong đó còn giấu bí mật khác. - Lão Ngũ lên tiếng.
Chị Giai Tuệ như muốn tránh những nghi ngờ không đáng có, nên đã tự động đứng dậy đi ra ghế sofa ngồi chờ.
Lão Ngũ lật giở kĩ càng từng trang sách, vẻ mặt cũng rất lạ, lúc thì chau mày, lúc thì lẩm bẩm điều gì đó trong miệng, hai con ngươi liên tục đảo từ trên xuống dưới, như muốn lục tìm lại điều gì đó hết sức quan trọng trong kí ức.
Tôi sốt ruột ngồi đợi bên cạnh, nhưng cũng không dám cắt ngang, đành cố kiềm chế và chăm chú nhìn lão, chờ đợi một câu trả lời.
Mất đúng một tiếng đồng hồ, Lão Ngũ mới giở tới trang cuối cùng rồi gập lại để lên mặt bàn, nét mặt vô cùng hào hứng:
- Mẹ kiếp, này nhóc con, ba chúng ta đúng là một lũ chuột, thỏ ăn hại. Giờ thì phải cất công tới động Lão Mậu một chuyến rồi. Ha ha ha… hay đấy, hay đấy!
Tôi ngỡ ngàng, không hiểu vì sao mà Lão Ngũ tự dưng quay sang mạt sát cả ba người, lại còn nói phải tới động Lão Mậu, động đó nằm ở đâu chứ?
Thấy tôi thắc mắc, Lão Ngũ chỉ cười và mắng tôi một câu:
- Chuột, thỏ, rùa[1] đi cùng đường. Đó là một câu thành ngữ, mi không hiểu được là đúng rồi.
[1] Trong tiếng Trung chữ “quy” (rùa) đồng âm với chữ “đồ ăn hại”.
Chị Giai Tuệ không nhịn được cười khúc khích, đặt nhẹ tay lên vai tôi, giải thích:
- Câu thành ngữ đó là “thù đồ đồng quy”, có nghĩa là tuy đi không cùng đường nhưng lại có chung đích đến. Lão Ngũ không có ý chửi chúng ta đâu.
Lão Ngũ bật cười khanh khách, vỗ vỗ lên vai tôi, trêu ghẹo:
- Đúng, đúng, đúng, “thử thố đồng quy, thử thố đồng quy”. Lão già này da mặt dày, để ta làm kẻ ăn hại cũng không sao. Hai đứa mi tự chia nhau làm chuột và thỏ đi.
Tôi vân vê túm tóc, khẽ gật đầu ra vẻ đã hiểu, nhưng thực ra trong lòng lại nghĩ tới câu chuyện Rùa và Thỏ mà tôi từng nghe lúc nhỏ, nhưng trong đó chỉ nói đến cuộc thi chạy giữa rùa và thỏ chứ có nhắc đến chuột nào đâu.
Tôi hỏi tiếp Lão Ngũ, cuốn Giải kiện tập lục đó rốt cuộc viết về cái gì? Lão nói đó đều là phương pháp tu luyện kĩ thuật của phái Kiện môn, sau đó lão đưa tấm biển màu đen lên ngang miệng, hà hơi rồi vừa lau vào tay áo vừa cho tôi biết đây chính là Kiện bài làm từ loại ngọc Hắc Mộc hiếm có, thường sinh trưởng ở gốc cổ thụ, được nuôi dưỡng bằng linh khí, mang thuộc tính của cả đất và đá nên độ quý hiếm của nó có thể sánh ngang với loại ngọc Lam Điền Bạch Thủy, một miếng bé thế này thôi cũng đủ mua được cả căn nhà…
Thấy lão lại bắt đầu lan man sang chuyện khác, tôi liền ngắt lời, hỏi lại lão Kiến bài là gì? Lão Ngũ cáu kính trả lời:
- Kiến kiến cái con khỉ ấy, là Kiện bài! Trong quyển sách này có nói rằng, mỗi truyền nhân của Bắc phái đều có một miếng Kiện bài do chính tay trưởng môn nhân trao cho, rồi phải đích thân đưa nó tới động Lão Mẫu ở Bắc Trấn để quy tông nhập vi, khi đó mới chính thức được trở thành người mở khóa.
Bây giờ thì tôi đã rõ. Thì ra là động Lão Mẫu, chứ không phải là động lão Mậu! Tôi có cảm giác tên địa danh này quen quen, nhưng hiện giờ không thể nhớ ra nó ở đâu. Ngoài ra, lẽ nào ông nội đã đặt tên cho tôi trước cả khi tôi sinh ra, còn khắc tên lên miếng Kiện bài nữa? Nhưng không đúng! Từ trước đến nay vật này đều truyền cho nam chứ không truyền cho nữ, chẳng phải ngay lúc đầu ông nội cũng không có ý định truyền nghệ cho tôi còn gì.
Tôi vắt óc suy nghĩ mãi nhưng không thể nào đoán ra được. Chị Giai Tuệ cầm miếng Kiện bài lên, hỏi Lão Ngũ:
- Lão Ngũ, nghe lão nói vậy, chắc là lão cũng định tới động Lão Mẫu ở Bắc Trấn đúng không ạ?
Lão Ngũ gật gật đầu, khệnh khạng qua lại vài bước, vân về chỏm râu, nói:
- Thực ra cũng không định nói cho hai đứa bay biết đâu, nhưng giờ ba chúng ta đã trở thành chuột, thỏ, rùa rồi nên cũng không giấu hai đứa nữa. Mùa xuân năm sau, Lão Ngũ ta phải tới Lư Sơn, Bắc Trấn để Luận Đạo.
Tôi thấy lão nói kì quặc quá liền thắc mắc giờ đều đã là chuột, thỏ, rùa rồi còn tự chui vào lư[2] làm gì, Lão Ngũ phải đi luận cái gì Đạo mới được chứ?
[2] Con lừa âm Hán Việt là “Lư”, gần âm với chữ “Lữ”
Chị Giai Tuệ vội giảng giải cho cái tai lòi của tôi, Bắc Trấn cũng giống như vùng sản sinh ra cát bay Lăng Hải, đều nằm phía dưới thành phố Cẩm Châu thuộc tỉnh Liêu Ninh. Trung Quốc có năm huyện lớn nằm trên núi đó là Đông Trấn Thanh Châu Nghi Sơn, Tây Trấn Ung Châu Ngô Sơn, Trung Trấn Ký Châu Lộ Sơn, Nam Trấn Dương Châu Kim Kê Sơn, Bắc Trấn Y Vu Lư Sơn, gọi tắt là Lư Sơn. Trên Lư Sơn có một ngôi chùa Thanh Nham hoàn toàn bằng đá tự nhiên ở thôn Thường Hưng, thuở ban đầu nó thuộc nước Bắc Ngụy. Bên trong thiền viện có một cái động tự nhiên thời “Lão Mẫu nghiêng đầu” - một trong ba mươi hai phép hóa thân của Quan Thế m Bồ Tát. Số lượng Quan m ở đây nhiều vô kể, cho dù là tượng đứng hay tượng ngồi thì khuôn mặt đều nghiêng về một phía nên gọi là “Lão Mẫu nghiêng đầu”. Nghe nói đến đây cầu tài cầu tự đều rất thiêng, nên hương khói nghi ngút quanh năm. Hai năm trước, Cục Cảnh sát tổ chức nghỉ mát ở đây nên chị đã được hướng dẫn viên du lịch giảng giải rất kĩ càng.