- Hắc Lão Ngũ muốn đi đâu cũng được, chúng tôi sẽ ở đây đợi ông.
Sau khi Hắc Lão Ngũ rời khỏi phòng, mọi người đều đổ dồn ánh mắt nghi ngờ về phía Trưởng phòng Tư, nhưng ông vẫn bình thản mà nói:
- Nghi ngờ thì không dùng người, đã dùng rồi thì không nghi ngờ, tôi thấy Hắc Lão Ngũ là một đại trượng phu, yên tâm đi, không lâu nữa ông ấy sẽ quay trở lại thôi.
Quả thực không ngoài dự đoán, khoảng tám giờ tối ngày hôm đó, Hắc Lão Ngũ đã quay trở lại trụ sở cảnh sát, còn thay một bộ quần áo lụa màu đen, đi một đôi giầy vải đen, đúng phong cách của giới giang hồ.
Hắc Lão Ngũ nói riêng với tôi, vừa rồi lão đến thăm người em trai Hắc Lão Tam, họ đã không gặp nhau mấy chục năm nay, cả hai giờ đều đã già sắp không nhận ra nhau nữa rồi. Tôi có hơi thắc mắc, tại sao người em lại gọi là lão Tam, trong khi người anh gọi là lão Ngũ? Hắc Lão Ngũ nghe vậy chỉ lắc đầu mỉm cười khiến tôi hiểu rằng không nên tò mò điều này.
Cả đêm hôm đó, không ai nói với ai lời nào. Đến sáng ngày hôm sau, hơn ba trăm cảnh sát thuộc Cục Cảnh sát Liêu Ninh và cảnh sát Thẩm Dương đã cùng tập trung trước sân của Cục Cảnh sát, tôi, chị Giai Tuệ và Hắc Lão Ngũ đều mặc cảnh phục trà trộn vào đám đông, tôi còn nhìn thấy rất nhiều phóng viên cầm theo máy ảnh đứng bên ngoài đang chụp ảnh, ghi hình.
Trưởng phòng Tư đứng bên trên phát biểu một bài diễn văn rất dài, sau khi đã quan sát đám đông xung quanh cẩn thận, ông mới tiến đến chỗ chúng tôi, nói nhỏ:
- Đây chỉ là chiêu đánh lạc hướng bọn chúng. Tôi muốn qua giới truyền thông phát động chiến dịch quét sạch văn hóa phẩm đồi trụy. Chờ cho đến khi buổi phát động kết thúc, mọi người rời khỏi đây, thì lúc đó ba người sẽ đi thẳng tới Cố Cung, cả tuyến đường bí mật dẫn đến đó đều đã được kiểm tra nghiêm ngặt và bố trí đội ngũ cảnh sát bảo vệ, thế nên mọi người cứ yên tâm mà đi.
Tôi nghe xong, bất giác thấy lo lắng, nắm chặt lấy tay chị Giai Tuệ. Hắc Lão Ngũ thì thản nhiên như không có chuyện gì xảy ra, ung dung vuốt ve chiếc biển cài trên áo, lẩm bẩm:
- Mẹ kiếp! Cả đời làm trộm rồi, cho tới khi sắp vào quan tài thì lại đi làm cảnh sát. Tổ tiên tha tội cho con, tổ tiên tha tội cho con. Hay lắm! Hay lắm!
Đúng chín giờ sáng, sau khi Trưởng phòng Tư phát hiệu lệnh, hơn ba trăm con người lần lượt lên mấy chục chiếc xe cảnh sát đang đỗ sẵn trong sân, còi và đèn cảnh sát rú lên inh ỏi, nối đuôi nhau rời khỏi Cục Cảnh sát. Cảnh tượng lúc đó diễn ra vô cùng náo nhiệt, Những người đi đường đều hết sức tò mò, chắc họ cũng đang đoán già đoán non về một vụ án nào đó lớn lắm.
Xe của chúng tôi đi theo đoàn một chặng đường, sau đó tách ra theo lộ trình đã vạch sẵn, rẽ ngang rẽ dọc một hồi thì tiến thẳng tới Cố Cung.
Vào ngày hôm đó, quanh khu vực Cố Cung được canh gác rất nghiêm ngặt, bên trên những tấm biển cấm có đề dòng chữ bằng mực đỏ: Bên trong đang tu sửa, không được phép tham quan.
Phía ngoài điện Sùng Chính một đội ngũ cảnh sát được trang bị súng ống đầy đủ đang đứng gác, một vài người còn mang cả súng trường. Một anh cảnh sát dẫn chúng tôi tới căn phòng gần đó để thay đồ. Khi đeo túi đồ nghề bước ra, Trưởng phòng Tư, Trần Đường, La Hoán Văn và mọi người lập tức tiến tới phía chúng tôi, dặn dò chúng tôi phải hết sức thận trọng, nếu xảy ra bất cứ chuyện gì, nhất định không được ngoan cố mà phải quay ra ngay, an toàn là trên hết. Chị Giai Tuệ thì gật đầu đồng ý, còn Hắc Lão Ngũ thì nhăn mũi tỏ vẻ không quan tâm.
Thể theo yêu cầu của tôi và Hắc Lão Ngũ, chỉ mình chị Giai Tuệ được phép cùng chúng tôi vào trong điện. Do đó, sau khi tấm cửa điện dần dần đóng, mọi người đều ở lại bên ngoài.
Phía trong điện Sùng Chính rất rộng, ở giữa điện được dựng bốn hàng cột gỗ lớn sơn đỏ, phải hai người lớn mới ôm trọn thân cột, hầu hết bề mặt của những cột gỗ trong này đều được khắc hoặc vẽ hình rồng bay phượng múa một cách tinh tế. Nhưng vì các cánh cửa đều đã bị đóng chặt thế nên bên trong điện lúc này chỉ còn là một màu tối đen, giống như chúng tôi đang lạc vào rừng lúc nửa đêm.
Chúng tôi phải dùng đến đèn pin chuyên dụng của cảnh sát, dần dần mò đến ngai vàng nơi đặt chiếc khóa Song Long, ở đấy chúng tôi có thể nhìn thấy trên miếng gỗ bách cổ thụ có rất nhiều vết tích trên bề mặt, để lộ ra chiếc khóa Song Long nằm phía dưới.
Đó là một miếng kim loại màu đen vuông vức, dày dặn, mỗi cạnh dài khoảng một mét rưỡi, trên bề mặt hầu như không tìm thấy vết tích hoen gỉ, trên đó có khắc một đôi rồng đang uốn vờn nhau, phần đầu rồng nhô lên khỏi bề mặt vài phân, miệng rồng há to, cùng tranh nhau một viên ngọc tròn màu xanh biếc đặt ở giữa. Qua ánh sáng phản chiếu của chiếc đèn pin, viên ngọc vừa tròn vừa sáng, ánh lên trong suốt như pha lê.
Hắc Lão Ngũ liền hạ túi đồ nghề, rồi quỳ xuống bên cạnh, hai bàn tay xoa xoa lên mặt khóa, dùng ngón trỏ gõ gõ xuống bề mặt kim loại, rồi nói:
- Mấy thằng chuyên gia khảo cổ có mắt như mù, nói năng nhảm nhí, rõ ràng đây là một hợp kim hiếm có mà lại đi bảo là gang với thép gì đó. Mẹ kiếp! Độ cứng của nó thì miễn bàn, lại liền thành một khối với bên dưới, thế này thì đến bom mìn cũng không thể làm gì được. - Lão lại xoa tay sang viên ngọc trân châu, đôi mắt sáng bừng lên, nở một nụ cười rồi nói. - Ha ha, không tồi, quả là không tồi, của quý này là ngọc Lam Điền hiếm có, nếu bán đi thì sẽ được không biết bao nhiêu là tiền.
Lão cứ thế mân mê một hồi lâu, rồi mới quay sang tôi gật gật đầu tỏ ý để tôi tới tìm hiểu nhưng vẫn tiếc rẻ không nỡ rời.
Chị Giai Tuệ đứng bên cầm đèn pin soi cho tôi quỳ xuống quan sát kỹ từng chi tiết của chiếc khóa, tôi phát hiện ra tấm hợp kim này thực chất được nối liền một khối với bên dưới, thế nhưng ngoài bốn đường biên ra, không tìm thấy bất kì vết nứt nào, có thể là nó được đúc theo khối, xem ra chìa khóa mở chiếc khóa này vẫn chính là cặp rồng vờn viên ngọc trân châu kia.
Tôi quỳ hẳn hai gối xuống, với chiếc kim móc ra, vừa không ngừng cào lên thân con rồng vừa áp sát tai xuống mặt sàn lắng nghe âm thanh phát ra, nhưng vẫn không phát hiện ra dấu hiệu gì, càng không nghe thấy âm thanh của bánh răng cưa hay cỗ máy nào đang hoạt động bên dưới.
Tôi vẫn thấy nghi ngờ, nên lấy chiếc kim dài chọc mạnh để thăm dò. Xung quanh thân rồng không thấy dấu vết của một chiếc nút ấn nào, miệng rồng lại rỗng, hàm trên và hàm dưới chỉ có hai chiếc răng nanh, phía sâu trong họng liền thành một khối, tôi không tìm thấy bất cứ dấu hiệu của lỗ khóa ở đâu. Quay sang miết viên ngọc, nó cũng được khảm kín trong bề mặt kim loại, quan sát đường viền nối giữa viên ngọc và bề mặt tấm kim loại cũng không có dấu hiệu gì khác thường.
Thấy tôi nghiền ngẫm một hồi, chị Giai Tuệ cũng thò đầu tới, hỏi nhỏ tôi xem có phải đã tìm ra manh mối gì không.
Tôi lắc đầu:
- Giờ chưa nói lên điều gì, để em thử dùng kính chuyên dụng xem sao! - Nói rồi tôi lôi chiếc kính lúp chuyên dụng ra đeo vào mắt trái, tì hẳn người sát xuống bề mặt chiếc khóa Song Long, vừa dùng mũi kim cào lên bề mặt vừa thám thính âm thanh phát ra.
Dần dần, tôi cũng đã phát hiện ra vị trí của bộ phận then chốt. Thì ra, phần đầu nhọn của cả bốn chiếc răng nanh đều có một lỗ rất nhỏ, có thể nhét vừa một sợi tóc. Vị trí của bốn chiếc lỗ này cũng hết sức kỳ quặc, nếu như tôi đoán không lầm thì đây chính là mắt khóa.
Tôi ngồi dậy nói những phát hiện của mình với Hắc Lão Ngũ, lão hồ nghi bước tới xác minh rồi nói:
- Không khéo đấy chính là mắt khóa thật, Lan Lan, mi thử xem.
Tôi gật đầu, rồi vòng tay rút chiếc dây buộc tóc trên đầu xuống. Mượn chiếc bật lửa của chị Giai Tuệ, Tôi hơ qua sợi thun vài lần, khiến lớp cao su bọc ở bên ngoài chảy ra, để lộ một sợi dây kim loại mỏng màu bạc ở trong lõi.
Sợi dây thun này từ nhỏ ông nội đã đưa để tôi buộc tóc, còn dặn đi dặn lại không được làm mất nó. Lúc đó tôi còn cảm thấy không thoải mái, không biết vì sao mà ông nội lại coi sợi dây thun này quan trọng như thế. Về sau này, khi ông nội truyền lại bí quyết, mới nói cho tôi biết sự quan trọng của nó, lõi dây thun là một sợi kim loại đặc biệt, là một vật dụng, chuyên dùng để mở những mắt khóa vô cùng nhỏ.
Sợi kim loại này trông thì rất ngắn, thực ra nó được luyện từ một loại kim loại đặc biệt trên núi Phượng Hoàng kết hợp với những loại hợp kim khác, là kim loại nhưng nó lại có thể kéo dài ra gấp chục lần, cộng thêm khả năng chịu nhiệt vô cùng tốt, luôn giữ được độ dẻo dai và độ cứng, nên được coi là một trong những bảo bối của tổ tiên dòng họ Sở thuộc Bắc phái.
Tôi đặt sợi kim loại vào giữa lòng bàn tay, vê hai lòng bàn tay vào nhau, rồi giữ chặt hai đầu sợi dây, kéo mạnh về hai phía, sợi dây bị kéo dài khoảng sáu mươi centimet. Mặc dù nó đã bị kéo dài ra rất nhiều, giờ trở nên mỏng và dai như sợi tơ nhện thế nhưng vẫn giữ được độ dẻo dai như cũ.
Tôi cẩn thận nhét sợi dây vào lỗ trên đầu một chiếc răng nanh, hai tay từ từ luồn sợi dây sâu vào trong, cho đến khi ngập sợi dây, nhưng tôi vẫn chưa có cảm giác chạm vào đáy, mà vẫn chỉ như một khoảng không, thật không thể tưởng tượng nổi cuối cùng cái lỗ này có độ dài là bao nhiêu.
- Thế nào rồi? - Hắc Lão Ngũ cũng thấy hơi sốt ruột quỳ xuống bên cạnh hỏi.
Tôi lắc đầu:
- Không được rồi, sợi dây này ngắn quá, tới giờ vẫn chưa chạm tới đáy.
Tôi rút sợi dây ra, thử với ba lỗ còn lại, nhưng đều cho kết quả giống nhau, không tìm ra được bất kì cơ chế hoạt động nào.
Nhìn thấy tôi thẫn thờ ngồi xuống, Hắc Lão Ngũ mới tặc lưỡi, vô vỗ vào đầu tôi rồi nói:
- Con nhỏ này, mi không nhớ con nhỏ Giai Tuệ đã nói gì sao? Ông nội mi đã dùng bông và gạc để mở. Vậy thì hãy động não suy nghĩ chút đi, có phải khi Lão Sở tìm ra cánh cửa, có phải dùng đến những thứ đó không?
Câu nói gợi ý này của Hắc Lão Ngũ giống như tia lửa điện vụt qua đầu tôi khiến đầu óc đang mơ hồ của tôi lập tức nghĩ ra nguyên do của vấn đề.
Để kiểm nghiệm tính chính xác những suy đoán này, tôi đã thử dùng hai ngón tay trỏ và ngón giữa của bàn tay, lần lượt đưa vào miệng của hai con rồng, chầm chậm đưa vào tận cuống họng. Đầu ngón tay vừa chạm đến điểm cuối của cuống họng, tôi đã cảm thấy tám chiếc răng của hai con rồng sắc nhọn như cắn cắn chặt vào bốn ngón tay, chỉ cần mạnh thêm chút nữa là hoàn toàn có thể khiến ngón tay tôi bị chảy máu.
Trong lòng tôi bỗng hơi lo lắng vì cảm thấy chút nguy hiểm, từ từ rút ngón tay ra, quay sang Hắc Lão Ngũ và chị Giai Tuệ:
- Xem ra cháu đoán không sai, đây có lẽ chính là chiếc khóa Song Long hút máu.
- Là cái trò gì? Là cái gì máu? - Hắc Lão Ngũ nghe chưa rõ câu nói của tôi, nên quay sang hỏi dồn dập. Chị Giai Tuệ vì cũng chưa hiểu vấn đề nên cũng ngẩn người nhìn tôi đầy lo lắng.
Tôi quay xuống nhìn tấm kim loại, rút bàn tay ra rồi xoa lên viên ngọc trân châu, lập tức một cảm giác trơn nhẵn và mát lạnh lạ thường ập đến. Tôi càng khẳng định những suy luận của mình là đúng, nên đã giải thích cho hai người về lịch sử chiếc khóa Song Long hút máu này.
Từ xưa đến nay, kẻ mở khóa và người chế tạo khóa luôn là kẻ thù không đợi trời chung với nhau, hàng nghìn năm nay họ luôn đối đầu nhau, tranh đấu với nhau và ra sức tìm cách hạ đối thủ của mình. Mỗi chiếc khóa dù kỳ quái hay hóc búa đến đâu, sau khi được chế tạo, đều bị những kẻ mở khóa mày mò