Nếu màn đêm ở Las Vegas có thể khiến bạn phải bàng hoàng kinh ngạc, thì nhà hàng Mix của khách sạn Mandley Bay lại khiến Tuyết Nhung gặp khó khăn khi cố gắng tìm ra một tính từ để miêu tả. Sang trọng ư? Không đúng. Hiện đại ư? Không hẳn vậy. Lộng lẫy? Không chỉ là lộng lẫy. Đẹp ư? Nếu vậy thì cụm từ “xa hoa tráng lệ” liệu có thể diễn tả được hết không nhỉ?
Lancer nói, nhà hàng Mix nằm trong top mười nhà hàng sang trọng và đắt đỏ nhất Las Vegas. Mấy năm trở lại đây, nhà hàng này liên tục đứng đầu danh sách bình chọn các nhà hàng quyền lực nhất của tạp chí du lịch và tạp chí Forbes. So sánh về độ chịu chơi của các nhà hàng ở Las Vegas, Mix luôn là một trong những nhà hàng chơi trội nhất, lịch sự nhất, lãng mạn nhất. Vì thế, Lancer mới chọn nơi đây để cùng Tuyết Nhung thưởng thức bữa tối đầu tiên ở Las Vegas.
Mặc dù Tuyết Nhung đã tìm ra được tính từ chính xác nhất để diễn tả vẻ đẹp của nhà hàng mang phong cách Pháp này, nhưng cô lại cảm thấy có vẻ cụm từ “chơi trội” mà Lancer nhắc đến cũng khá chính xác.
Tính về mức độ “chơi trội” thì Mix là nhà hàng có sảnh ăn hoành tráng nhất mà Tuyết Nhung đã từng thấy. Song, sự độc đáo và khác lạ của nhà hàng này không phụ thuộc vào việc nó cao bao nhiêu, rộng thế nào, vì có lớn đến đâu cũng chẳng thể nào sánh được với nhà ăn của Đại lễ đường nhân dân Trung Quốc. Sự cuốn hút của Mix nằm ở sự bài trí tinh tế và độc đáo của nhà hàng này. Thực sự, không gian ở đây cao rộng bao nhiêu, Tuyết Nhung không thể đoán được. Nhưng sau khi tính toán độ dài của những nhánh đèn chùm treo trên trần, cô nghĩ chiều cao của nhà hàng này chắc chắn là một con số đáng sợ. Mỗi nhánh đèn chùm dài độ 24 inch, được tạo nên bởi vô số bóng đèn nhỏ. Mỗi bóng đèn lại có kích thước khác nhau, vì được thổi thủ công nên rất trong và sáng. Trên trần, những chỗ đèn thủy tinh duyên dáng rủ xuống tựa như những bọt nước nhả ra từ miệng cá, rồi được xâu chuỗi lại bởi chính những chú cá trong suốt tưởng tượng đó. Nếu như nhà hàng Mix chỉ có vài chiếc hay vài chục chiếc đèn chùm như vậy thì chẳng có gì đáng kinh ngạc. Nhưng ở đây có hẳn một dàn đèn chùm lớn, được xâu lại bởi 15 vạn bóng đèn thủy tinh có kích thước to nhỏ khác nhau. Ngoài ra, giữa sảnh còn đặt khoảng hơn chục chiếc bàn ăn vuông vắn, quây lại với nhau thành một vòng tròn vừa vặn. Mặc dù phần trung tâm của vòng tròn này là đoạn ngắn nhất của dàn đèn, nhưng bù lại những quả cầu thủy tinh ở đây lại tỏa ra thứ ánh sáng màu bạc rất đẹp mắt. Khi hướng ánh mắt theo ánh sáng đó ra bên ngoài, bạn sẽ bắt gặp những dây đèn có độ dài đa dạng, thoạt nhìn có vẻ lộn xộn, không có dụng ý, nhưng thực ra lại được sắp xếp rất có quy luật: trên những chiếc bàn ăn ở bên trái, các nhánh đèn sẽ rủ xuống phía sau ghế của thực khách, trong khi đó, tại những chiếc bàn ở bên phải, chúng sẽ treo lơ lửng, cách đầu các thực khách vài mét.
Màu sắc chủ đạo của nhà hàng là màu trắng và màu sữa, sàn được lát bằng đá tự nhiên, loại đá cẩm thạch màu sữa sống động và trang nhã. Khăn trải bàn và khăn ăn đều có màu trắng tinh khiết, chỉ có chân nến đặt trên bàn là có màu đỏ. Màu đỏ vừa lộng lẫy vừa cô đọng, nổi bật giữa màu trắng của chiếc bàn ăn và màu sắc chủ đạo của không gian xung quanh tạo nên một sự tương phản dữ dội. Giống như vẽ rồng điểm mắt, những chiếc chân nến nhỏ bé đã khiến cho nhà hàng vốn nổi tiếng hoa lệ lại càng thêm hoa lệ, vốn nổi tiếng lãng mạn lại càng thêm lãng mạn, và ngập tràn men say của tình yêu.
“Em thích nơi này lắm! Cảm ơn anh nhé!” Khi hai người ngồi vào chiếc bàn dành cho mình, Tuyết Nhung không kìm nén nổi xúc động nói với Lancer.
Lancer đưa tay dịu dàng vuốt những lọn tóc mái lòa xòa trước trán cô, mỉm cười nói: “Thế này thì anh phải ghen mất thôi! Đáng ra em phải thích anh hơn mới đúng chứ!”
Đây chính là Lancer, trong bất cứ hoàn cảnh nào, anh ấy cũng có thể khiến bạn từ buồn thành vui, từ vui thành vui hơn nữa. Tuyết Nhung thầm nghĩ, tại sao ông trời lại tạo nên chàng trai rất biết cách chọc cho người khác vui này kia chứ. Cô cảm thấy mình thật may mắn, thật sự rất may mắn.
Mặc dù nói là nhà hàng Pháp, đầu bếp Pháp nhưng thực đơn lại toàn bằng tiếng Anh. Mặc dù vốn tiếng Anh của Tuyết Nhung không tồi, nhưng đối với một cô gái trẻ mới đến Mĩ chưa đầy một năm như cô, thì những gì viết trong đó có vẻ hơi quá sức. Dù vậy, cô vẫn gọi món khai vị trước theo thói quen của người Mĩ. Món đầu tiên có thể đọc hiểu, đó là sa lát tôm hùm. Cô liếc nhìn sang bảng giá bên trái. Trời, những hai mươi sáu đô kia á! Những món phía sau cô chỉ hiểu lờ mờ, khó khăn lắm mới nhìn thấy tên một món có hai chữ “canh Thái”, có lẽ đó là “món canh được làm theo kiểu Thái” chăng. Cô lại liếc nhìn bảng giá, mười bốn đô, là món rẻ nhất trong số các món khai vị. Được, sẽ gọi món này.
Tiếp đó, Tuyết Nhung lại đưa mắt xuống dưới, nhìn vào danh sách các món chính. Tất cả các món cá đều có giá từ hai mươi chín đến ba mươi sáu đô. Nhìn xuống tí nữa, các món thịt và gà đều có giá xê dịch từ ba mươi tư đến bốn mươi tám đô. Trời ạ! Sao thịt lại còn đắt hơn cả cá. Dù nghĩ thế nào cô cũng vẫn không thể hiểu nổi, đành quay lại với món cá. Xem ra, cô chẳng thể hiểu được những món ăn phức tạp chế biến với cá này. Loay hoay một lúc, cuối cùng cô cũng tìm thấy một từ quen thuộc trong một hàng tên dài dằng dặc - “Rice” - “Cơm”. Sao lại có cơm ở trong món cá này thế nhỉ? Tự dưng, Tuyết Nhung thấy mình thật ngốc nghếch và quê mùa, sự kiêu ngạo vốn có bỗng chốc tiêu tan, như thể bị những con cá to lớn ở vùng đảo Java[2] nuốt chửng mất.
[2] Một đảo ở In-đô-nê-xi-a.
Kệ đi, cứ gọi món “Rice” này vậy. Choáng thật! Món cá với gạo này cũng đến hai mươi chín đô. Thôi được rồi, chỉ cần gọi thêm một món tráng miệng nữa là xong. Nhưng tất cả những món có hai chữ “sô-cô-la” hoặc “bánh ga-tô”[3] đều có giá từ mười đô trở nên.
[3] Hai chữ mà cô có thể hiểu.
Song lúc này, Lancer lại cứ luôn miệng hỏi cô muốn uống rượu gì?
Tuyết Nhung thầm nhẩm tính trong đầu, vị chi tất cả đã là năm mươi ba đô rồi! Lại còn thêm tiền rượu, tiền boa, tiền thuế, trời đất ơi! Chỉ cần ăn vài bữa thế này, thì cô chắc sạt nghiệp mất thôi! Nhưng Tuyết Nhung vẫn thở phào nhẹ nhõm. May mà khi còn ở trên máy bay, cô đã hẹn với Lancer trước, tất cả chi phí của chuyến đi Las Vegas này sẽ được trả bằng số tiền biểu diễn của cô trong tất cả các buổi quyên góp từ thiện sau này mà anh ấy chủ trì. Lúc này, Tuyết Nhung đang mừng thầm trong lòng, cũng may cô còn có chút tài nghệ có thể đem ra làm vật thế chấp, nếu không, chuyến đi Las Vegas lần này… ôi thôi, chẳng dám nghĩ tiếp nữa đâu.
Vậy Lancer thì sao? Anh ấy cũng chỉ là một sinh viên bình thường như cô, lấy đâu ra số tiền lớn như vậy để chi trả cho chuyến đi Las Vegas này? Tuyết Nhung bỗng thấy có gì đó không công bằng. Cô đã nói tất cả bí mật về gia đình mình cho anh biết, vậy mà bây giờ mới phát hiện ra mình thực sự chẳng hiểu gì về người con trai mà cô đã từng nghĩ mình hiểu rất rõ này.
Chẳng bao lâu, món khai vị đã được bưng đến. Tuyết Nhung cầm thìa khuấy vào giữa bát canh màu sữa, rồi nếm thử một miếng. Ngay lập tức, cô liền nhận ra đây là món canh dừa thịt gà bình thường mình vẫn ăn. Ăn xong canh, đợi một lúc thì món chính cũng được bê đến. Giữa chiếc đĩa trắng to chỉ có một nhúm cơm đen đen tượng trưng, một miếng cá bé tí rưới thêm ít nước tương nằm ngất ngưởng bên cạnh như thể để trang trí. Đúng là cũng có cá đấy chứ! Tuyết Nhung cầm dao cắt một miếng ăn thử, trời ạ, cũng chỉ là món cá hồi bình thường thôi mà, mùi vị cũng chẳng khác món cá hồi ở những quán ven đường cạnh trường đại học Middlesex là mấy, đầu bếp Pháp cái gì kia chứ!
Vậy mà bên cạnh cô, Lancer vẫn không tiếc lời khen ngợi, cái gì mà tinh hoa ẩm thực Pháp ngon nhất mà anh ấy từng được ăn. Tuyết Nhung nhịn không nổi, bật cười nói: “Mấy món u Mĩ của anh và mấy món em ăn trong nhà ăn sinh viên của trường đại học Mi-chi-gan chẳng khác gì nhau cả. Còn mấy món u Mĩ được làm trong mấy tiệm ăn Trung Quốc cạnh trường cũng giống mấy món trong nhà hàng Thiên Nga ở quê em, cái đó gọi là ‘hai con hổ, hai con hổ…’ cái gì nữa ấy nhỉ?” Lancer liền hát tiếp: “Chạy thật nhanh, chạy thật nhanh, môt con không có tai, một con không có đuôi, thật kỳ lạ, thật kỳ lạ!” Hai người vừa hát vừa cười, cười đến mức đau cả bụng.
Sau khi ăn xong, đồ tráng miệng được đưa tới. Lúc này, Lancer cứ đòi gọi hai ly rượu vang sản xuất năm 1947. Anh nhìn đăm đăm ly rượu đỏ, trầm ngâm rất lâu, sau đó đột nhiên ngẩng đầu lên nói với Tuyết Nhung: “Anh biết một cô gái rất nghiêm túc với tình yêu và đàn ông như em nhất định muốn biết về anh khi đã nói cho anh tất cả chuyện của mình. Bây giờ đến lượt anh. Khi so sánh với chuyện mà em đã trải qua, anh thấy vô cùng xấu hổ vì câu chuyện hời hợt của mình. Sau khi uống cạn ly rượu này để có thêm chút can đảm, anh sẽ kể cho em nghe”.
“Anh sinh ra trong một gia đình giàu có. ‘Giàu có’ phải nói hai chữ này thế nào ấy nhỉ? Ý anh muốn nói là khi chúng ta lái xe qua đại lộ trung tâm của Las Vegas, hai bên đường có rất nhiều nơi thuộc sản nghiệp của gia đình anh, vì vậy mọi thứ ở đây anh đều nắm rõ như lòng bàn tay. Ngoài ra ở California, Florida hay Nam California cũng đều có gia nghiệp nhà anh. Song anh lại lớn lên ở New York. Từ nhỏ, anh luôn cảm thấy mình là người vô cùng may mắn và hạnh phúc vì được sống trong nhung lụa, muốn gì được nấy, được ngồi máy bay riêng của gia đình đi du lịch khắp nơi, được vào học những trường chỉ dành cho tầng lớp quý tộc. Anh cũng là một trong những kẻ được đám bạn ngưỡng mộ nhất, và có nhiều con gái đeo bám nhất. Nhưng vào khoảng năm mười bốn tuổi, anh bỗng thấy ngán ngẩm mọi thứ xung quanh mình, và bắt đầu sống buông thả. Nhớ hôm sinh nhật mười bốn tuổi, anh đã lén uống rượu, và chẳng bao lâu sau thì có bạn gái.”
“Em biết không, vì là con trai của một gia đình giàu có như vậy nên anh trở thành đối tượng theo đuổi của tụi con gái, chỉ cần vẫy tay một cái là sẽ có kẻ lao vào anh. Chỉ trong vỏn vẹn một năm, từ mười bốn đến mười lăm tuổi, anh đã có đến sáu cô bạn gái, trong đó có một cô mới được vài ngày đã bị anh bỏ rơi như vứt đi một món rác. Mặc dù nổi tiếng là kẻ lăng nhăng và đểu cáng, nhưng vẫn có không ít con gái chạy theo, sẵn sàng làm bạn gái của anh. Đến năm mười sáu tuổi, anh bắt đầu thấy chán đám con gái, không, phải nói là chán tất cả đàn bà sống quanh mình mới đúng. Anh thấy bọn họ chẳng khác gì lũ ruồi nhặng hay đống rác vứt đi. Anh bắt đầu căm hận bản thân, căm hận tất cả mọi thứ của thế giới này, căm hận sự giàu có. Anh cho rằng căn nguyên khiến cuộc sống của anh rơi xuống vực thẳm là sự giàu có, và tiền bạc chính là thuốc độc. Anh nghĩ nếu mình sinh ra trong một gia đình bình thường như những đứa trẻ khác, thì chắc chắn sẽ lớn lên khỏe mạnh và vui vẻ, sẽ yêu thật lòng, được yêu thật lòng, mà không phải sống giữa những gì giả dối và phù phiếm.”
“Thế rồi, chẳng biết từ lúc nào anh đã hút thuốc phiện. Cuộc sống mỗi ngày một sa đọa của anh khiến cha mẹ sợ hãi và lo lắng, nhưng họ vẫn không nghĩ nguyên nhân khiến anh như vậy chính là sự giàu có, vì hai người anh và cả chị gái của anh vẫn sống rất nghiêm túc, chăm chỉ học hành giống như những cậu ấm cô chiêu khác. Họ đều vào học trường của Ivy League[4], sau khi tốt nghiệp lại về giúp cha anh mở rộng thêm cơ ngơi của gia đình. Họ còn tưởng anh có vấn đề, nên đưa anh đến gặp bác sĩ tâm lý… Nh