Cửa sổ hướng về phía đông, nắng sớm rực rỡ tỏa rạng lên người, khiến cả người anh như được bao phủ bởi quầng sáng vàng lóng lánh. Thấy cô bước ra, anh không phản ứng gì, chỉ gạt tàn thuốc vào gạt tàn bên cạnh.
Lúc không nói chuyện, anh mang một vẻ lạnh lùng sắc sảo, Đỗ Hiểu Tô không biết vì sao cô luôn cảm thấy sợ anh, nên nói nhỏ nhẹ: “Anh hai”. Nghe cô nói vậy, anh vẫn không cử động, cô nói tiếp: “Cảm ơn anh, tôi về đây”.
Anh dập tắt điếu thuốc, quay đầu lại, giọng nói mang chút ôn hòa: “Có vài nơi, nếu cô đồng ý, tôi dẫn cô đi xem”.
Họ đi qua rất nhiều nơi, anh lái xe chở cô đi xuyên qua mọi ngóc ngách trong thành phố. Những con đường đó đều rất yên tĩnh, cơn gió khẽ thổi cây cối hai bên đường, lá rụng xào xạc như một trận mưa vàng, quét qua cửa xe rồi rơi xuống. Thỉnh thoảng anh lại dừng xe, rồi cô cũng theo xuống.
Anh chầm chậm đi trước, còn cô ngập ngừng dạo bước theo sau. Nơi này rất lạ, lúc vào trong mới nhận ra những cây ngân hạnh và cây hòe xung quanh che phủ con đường dài thăm thẳm, cách hàng cây thấp thoáng một sân bóng, trong sân có người đang đánh bóng, tiếng cười vang lên rộn ràng. Những ngôi nhà kiểu Xô Viết cũ kỹ tách biệt nhau, trên tường bám đầy dây leo. Cây bắt đầu vào mùa rụng lá, những cành cây khẳng khiu dần lộ ra tựa như vết tích của thời gian. Lá sen trong hồ đã tàn, có cụ già ngồi một mình trong đình giữa hồ kéo đàn accordion, giai điệu thê lương buồn bã như ngấm vào từng lá sen giữa hồ. khung cảnh mùa thu giữa thành phố này luôn đẹp tuyệt nhưng man mác chút buồn và ảm đạm như thế.
Lôi Vũ Tranh không nói gì với cô, cô cũng chỉ im lặng, nhưng cô cảm nhận được rằng dường như Thiệu Chấn Vinh từng sống ở đây, từng bước qua đây, từng hít thở bầu không khí nơi này và từng sống rất nhiều năm ở đây.
Hoàng hôn buông xuống, anh dừng xe bên đường nhìn đám học sinh ào ra như nước. Hàng cây bạch dương như che khuất các phòng học, mái ngói lưu ly màu xanh xám, hành lang dài như mê cung lại tựa một người khổng lồ cô đơn và mệt mỏi. Càng đi sâu vào trong càng tĩnh lặng, thỉnh thoảng lại gặp vài học sinh nói cười vui vẻ bên đường, chẳng ai chú ý đến họ.
Đi xuyên qua rừng cây rồi men theo con đường nhỏ đến ven hồ sen. Nói là hồ sen nhưng thực ra trong hồ chẳng có sen, xung quanh bờ đầy cỏ lau. Mà mùa này lại chính là mùa cỏ lau tươi tốt nhất, bông lau trắng toát che đi ánh hoàng hôn phía xa, gió thu thổi qua vang lên tiếng xào xạc, sắc thu tựa như một bức tranh nhạt nhòa. Vẫn còn vài tấm bia xót lại trên bãi cỏ ven hồ, nét chữ trên đó đã mờ nhạt. Anh đứng bên cạnh tấm bia như đang cố nhớ lại điều gì đó. Sắc trời dần tối, rồi anh cũng đến bên gốc liễu, lấy một cành cây khô, quỳ xuống bắt đầu đào.
Lúc đầu Đỗ Hiểu Tô không hiểu anh đang làm gì, chỉ biết cành cây đó quá nhỏ, chỉ mới đào một lát đã gãy. Anh vẫn không nói gì, tìm một hòn đá có góc cạnh, tiếp tục đào. Cũng may mấy ngày trước vừa có mưa, đất cũng mềm đi. Phải một lát sau cô mới bắt đầu hiểu ra anh đang làm gì, thế nên cũng nhặt một hòn đá, vừa định quỳ xuống đã bị anh lặng lẽ ngăn lại. Cô không nói gì liền đứng lên đi ra xa, đứng bên cạnh tấm bia nhìn anh.
Hôm đó cô không biết anh đào bao lâu, mãi đến lúc gần tối, đứng từ phía cô chỉ có thể nhìn thấy nửa khuôn mặt anh, ánh đèn đường phía xa khẽ len qua kẽ lá, chiếu lên khuôn mặt mông lung mơ hồ của anh. Hai tay anh vấy đầy bùn, nhưng dù làm việc này, nhìn anh vẫn rất ung dung tự tại, không hề tỏ dáng vẻ thê thảm. thật ra khi nhìn anh làm việc nghiêm túc rất giống với Thiệu Chấn Vinh, nhưng không đúng vì Thiệu Chấn Vinh trong ký ức vĩnh viễn không bao giờ làm như vậy.
Sau cùng, anh lấy ra một cái hộp, Đỗ Hiểu Tô nhìn anh dùng khăn tay lau sạch bùn đất dính bên trên, sau đó đặt trước mặt cô.
Cô không biết bên trong là gì, chỉ chậm rãi quỳ xuống. Khi mở nắp hộp tay cô bắt đầu run lên, đó hình như là một chiếc hộp chocolate bằng sắt bởi bên ngoài vẫn có thể nhìn thấy hoa văn thương hiệu. Qua nhiều năm hộp đã bắt đầu gỉ, cô cố sức nhưng vẫn không mở ra được, cuối cùng vẫn phải đưa cho anh mở.
Bên trong toàn là giấy được sắp xếp rất ngăn nắp. Cô nhìn thấy bên trong nắp hộp có khắc ba chữ: Thiệu Chấn Vinh.
Là nét chữ tự nhiên, bay bổng của Thiệu Chấn Vinh. Cũng có lẽ vì thời gian đã qua lâu rồi, cũng có thể là thời niên thiếu nhất thời bồng bột nên anh đã dùng dao khắc tên mình lên đó, cho nên nét chữ khi liền khi đứt.
Cô vẫn quỳ ở đó, bất động và dường như ba chữ kia đã hút tất cả linh hồn cô, khiến cô thẫn thờ như một vỏ bọc trống rỗng.