Tiền chi tiêu hàng tháng của thất phu nhân và A La cộng lại không quá mười lạng bạc, tằn tiện mới đủ trang trải cho cả Đường viên. Từ khi Lý tướng biết Thanh La không phải hạng bất tài, tiền chi tiêu tháng tăng vọt lên đến hai chục lượng. Thất phu nhân xem kỹ tấm ngân phiếu lấy được của Lưu Giác, không có ký hiệu gì đặc biệt, liền giao cho vú Trương lén tìm người đổi tiền, được hơn bốn trăm lượng, so ra thật là một trời một vực, công tử nhà giàu giắt túi sơ sơ cũng mấy trăm lạng bạc, đủ cho bốn người của Đường viên ăn trong vài năm. A La nhất quyết cho rằng, có tiền mới dám mạnh mồm, đi đến đâu, đồng kẽm có ô vuông cũng là quan ngoại giao tốt nhất, vậy là quyết chí ra khỏi phủ tìm cơ hội kiếm tiền.
Thất phu nhân buồn rầu nhìn A La: “Tháng sau con mới tròn mười ba, ngày thường không ra khỏi nhà, sao mẹ có thể yên tâm?”.
A La đáp: “Những ngày qua con cũng được nghe nhiều về phong thổ nhân tình của Phong thành, cũng lén đọc khá nhiều thư tịch, không đến nỗi chẳng biết gì về Ninh quốc, huống hồ, đầu óc của A La đâu có giống đứa trẻ mười ba?”.
Thất phu nhân vẫn không yên tâm, A La cũng hết cách, bèn kéo phu nhân đến rừng trúc. Khi nàng vận nội công dùng tay chẻ toác một cây tre to ngay trước mặt bà. Lại tung một loạt quyền cước, đòn ra đến đâu, lá trúc bay rào rào, trông rất khí thế, thất phu nhân mới sửng sốt. A La cười kéo tay mẹ: “Lúc nhỏ có lần không ngủ được, con chạy ra vườn chơi, gặp một đại thúc tinh thông quyền cước, ông ấy dạy con, dạy xong thì đi, dặn không được nói với bất kỳ ai. Mẹ à, trong phủ này cũng chỉ có mình mẹ biết. Lần trước, tiểu vương gia của phủ An Thanh vương đã bị con một chưởng đánh ngất xỉu”.
Thất phu nhân giơ tay bịt miệng A La, nhìn vẻ dương dương đắc ý của nàng, vừa bực vừa buồn cười vừa vui: “A La, thế này được rồi, nếu quả thực không ổn, con rời tướng phủ xem ra cũng có thể một mình bỏ trốn”.
A La ôm mẹ: “Đã đi thì cùng đi, con quyết không để mẹ một mình ở đây”. Trong thế giới kỳ dị này thất phu nhân là hồi ức ấm áp nhất của nàng. Con người không phải cỏ cây, bảy năm chung sống, A La đã coi thất phu nhân, vú Trương và Tiểu Ngọc là người thân.
Tiểu Ngọc đã mười bốn, thất phu nhân đưa cho một trăm lạng bạc, để sau này rời phủ có chút lưng vốn, rồi tìm người tử tế xây dựng gia đình, Tiểu Ngọc không chịu, quỳ khóc nói: “Tiểu Ngọc không người thân thích, năm xưa thất phu nhân cho ngân lượng để Tiểu Ngọc mai táng cho mẹ, bây giờ phu nhân bảo con đi đâu?”.
Thất phu nhân nói: “Ở mãi trong phủ sẽ lỡ dở chuyện cả đời”.
Tiểu Ngọc chỉ lắc đầu: “Phu nhân, tiểu thư đã coi Tiểu Ngọc như người nhà, cứ cho con ở lại, tiểu thư vẫn còn nhỏ”.
A La đỡ Tiểu Ngọc đứng dậy: “Sau này Tiểu Ngọc là tỷ tỷ của ta, chúng ta là người một nhà, ta đi đến đâu cũng không bỏ tỷ”. Từ hôm đó, thất phu nhân bắt đầu dạy Tiểu Ngọc thổi sáo, đề phòng có ngày A La ra khỏi phủ, Tiểu Ngọc có thể đứng trong rừng trúc thổi sáo đánh lừa tai mắt của mấy bà phu nhân.
Sau khi hứa với Lý tướng sẽ chuyên tâm học thổi sáo, A La thường dậy sớm vào rừng trúc tập luyện. Rừng trúc vắng vẻ, không khí thanh tĩnh trong lành, chim chóc ríu rít, không ai quấy rầy.
Hôm đó, nàng vừa thổi một lúc chợt nghe có tiếng tiêu từ bên ngoài vọng vào, hòa tấu với tiếng sáo của nàng. A La giật thót, tiếng tiêu vẫn tiếp tục. Nàng chầm chậm thổi hết một khúc, buông cây sáo, tiếng tiêu bên ngoài cũng nhỏ dần, rồi dứt hẳn .
Tiếng tiêu đó xuất hiện khoảng một tháng sau khi A La đến rừng trúc tập sáo. Sau đó sáng sớm mỗi ngày khi nàng đến đây luyện sáo, tiếng tiêu lại cất lên hòa tấu. Lúc đầu tiếng sáo của A La chưa thành thục, dần dần càng hòa hợp với tiếng tiêu. Thất phu nhân an ủi nàng: “Tam nhi, tiêu sáo đều cùng một họ, con chơi đàn đã vượt qua mẹ năm xưa, sáo cũng học rất nhanh, đủ để đối phó với cha con rồi”.
Từ đó A La không bỏ nhiều công sức luyện sáo nữa, chỉ cần có thể giao lưu là được. Nàng nghĩ, phải ra ngoài xem xét mới nhanh chóng thông thuộc Phong thành, mới dễ tìm lối thoát.
Tường bao quanh tướng phủ cao tám thước, xây bằng gạch xanh, không hề có kẽ hở. Tiểu Ngọc đứng canh bên ngoài rừng trúc, hai bên thỏa thuận nếu có tình hình sẽ dùng tiếng sáo làm hiệu. A La thong thả đi về phía bức tường bao sau rừng trúc. Thận trọng men theo tường đi một vòng, không phát hiện thấy lối ra, rủa thầm giá lúc này gặp công trình rởm như thời hiện đại có phải tốt không! Đang lúc thất vọng, đột nhiên nhìn thấy bên cạnh tường có mấy đống đá chỏng chơ, đoán là chỗ đá thừa khi xây tường. Đá chất đống đã lâu, bên trên rêu cỏ mọc đầy.
Nàng xắn tay thử bẻ một phiến, đá vỡ dù bé, nhưng phiến to cứng hơn năm chục ký. A La hít một hơi cố sức nhấc, phiến đá chỉ hơi nhúc nhích. Lòng mừng thầm, nhớ kỹ vị trí, đi ra khỏi rừng trúc, mỉm cười với Tiểu Ngọc.
Ngày hôm sau, thất phu nhân đích thân đứng canh bên ngoài rừng trúc, A La và Tiểu Ngọc đem theo hai cái gậy đến chỗ đống đá hôm trước. Tiểu Ngọc nhìn đống đá không biết làm gì: “Tiểu thư, chỗ đá này phải mấy người đàn ông khỏe mới chuyển đi được, chúng ta có làm được không?”.
A La cười: “Chúng ta bẩy, không cần dùng quá nhiều sức lực. Archimedes nói, cho tôi một điểm tựa tôi sẽ nâng cả trái đất, mấy hòn đá này có là gì”.
A La cười khanh khách: “Không cần phải hiểu, cứ làm theo ta”. Sau đó dạy Tiểu Ngọc dùng gậy tre luồn dưới tảng đá, tìm một hòn đá khác kê dưới gậy, A La ra sức ấn cây gậy, bẩy tảng đá lên, Tiểu Ngọc ở phía trước đẩy, tảng đá nhích dần từng tý tới bên tường.
Tiểu Ngọc vui mừng vỗ tay, A La suỵt một tiếng, hai người chuyển một hòn đá nhỏ hơn bắt đầu kê xếp.
Mấy ngày sau, khi thất phu nhân đến bên tường, chỉ nhìn thấy mấy khóm trúc và đám dây leo, không có đường ra ngoài phủ. Đang buồn, A La đã kéo bà quay ra sau, đống đá đã được xếp từng bậc cao dần sát tường, đi theo các bậc đó, dễ dàng trèo lên mặt tường.
Thất phu nhân và A La thử ngó ra. Bên ngoài có một con đường nhỏ, tiếp nữa là một dòng sông. Xung quanh không có ai, hai người cười thầm từ trên mặt tường nhảy xuống, vòng ra phía trước. Thất phu nhân thốt lên: “Đứng ở chỗ này chẳng thấy dấu vết gì”.
A La đắc ý cười: “Con và Tiểu Ngọc đã mất bao nhiêu công sức lấy dây leo che lên đấy”. Trở về phòng, thất phu nhân bắt đầu vẽ sơ đồ trong phủ, phán đoán con sông bên ngoài là từ núi Ngọc Tượng trong vương cung chảy ra, ra khỏi đông môn, nhập vào sông Đô Ninh. Thất phu nhân còn vẽ cả bản đồ Phong thành theo trí nhớ.
A La kết hợp sơ đồ do thất phu nhân vẽ và những điều đọc được trong sách, mới có sơ đồ toàn cảnh của Phong thành.
Phía nam ngoài Phong thành là sông Đô Ninh. Phía tây là bình nguyên, đi thẳng mãi về phía tây sẽ đến Khởi quốc. Phía đông là núi Ngọc Thúy, biệt uyển Thập Thúy sơn trang của Hộ quốc công chúa xây dưới chân núi, lâm viên của hoàng gia cũng ở đó. Vượt qua núi Ngọc Thúy là khu rừng rậm Hắc Sơn bạt ngàn, tiếp đến là bình nguyên Mãng Độ, cũng chính là biên giới giữa Ninh quốc và An quốc, đi tiếp về đông là biển Nguyệt Ly mênh mông.
Phía bắc Phong thành là dãy Ngọc Tượng. Vương cung xây dựa vào núi, các đỉnh núi thuộc dãy Ngọc Tượng cao chót vót chạm mây, quanh năm tuyết phủ, tuyết tan tạo thành suối Toái Ngọc, bốn mùa không bao giờ cạn, chảy qua vương cung ra ngoài, lại phân lưu thành những nhánh nhỏ chảy vào thành làm nguồn nước, phía sau dãy Ngọc Tượng cũng là rừng rậm, đi tiếp là biên giới với An quốc.
Phía nam qua sông Đô Ninh, qua mười ba trấn là đến Hán Thủy, tiếp đến là Trần quốc. Phía tây nam cách Hán Thủy là Hạ quốc.
Phong thành chỉ có ba cổng lớn, tựa núi kề sông vững chãi. Cách An quốc một khu rừng rậm, là không còn phải lo gì nữa. Phong thành là tuyến phòng thủ cuối cùng của Ninh quốc. Ninh quốc phồn thịnh thanh bình, mấy chục năm không xảy ra chiến tranh.
Từ vương cung có một con đường thẳng tắp dẫn tới cổng bắc Phong thành, đoạn đường trong thành lại gặp con đường thông với cổng đông bắc. Phong thành tự nhiên được chia thành bốn khu. Phía tây bắc là khu cung thất và công đường; đông bắc là cung thất của hoàng thân, đại thần và công quán của sứ thần các nước, đây là khu vực giàu sang; tây nam là khu thường dân; đông nam là khu thương mại.
Trong các khu chỗ nào cũng trà quán, tửu lầu, quán cơm chi chít như bàn cờ. Khu thương mại là nơi ăn chơi giải trí phong lưu, ở đây có dinh thự lộng lẫy của thương gia, các tửu quán, lầu xanh, ngoại thương quán xa hoa cao cấp nhất. Ra khỏi cửa nam, trên sông Đô Ninh thuyền hoa dày đặc. Tóm lại, đây chính là đô hội quốc tế lớn sầm uất náo nhiệt, được phân chia chức năng rõ ràng.
A La ra ngoài, đầu tiên đi tham quan khu thương mại. Nàng cần kiếm tiền, cần thu thập thông tin, cần tìm hiểu phong tục tập quán của một nơi xa lạ. Những nơi chưa phát triển luôn tàng ẩn thể giới đào viên. A La tin là nàng nhất định tìm được. Lúc này nàng không mong lập nên nghiệp lớn ở thế giới cổ đại, chỉ muốn sống yên ổn, có thể tự quyết định mọi chuyện của mình.
Hôm đó Thanh La dậy sớm, bên trong mặc áo ngắn bó sát, bên ngoài choàng áo chùng rộng màu bạc, tóc cột chặt, thắt đai lưng gọn gàng, soi gương thấy một tiểu nam nhi mặt mày khôi ngô, ngũ quan rạng ngời như ngọc.
Thất phu nhân giúp nàng dùng bột nâu bôi những chỗ lộ da thịt, tô đậm lông mày. A La ép cho giọng nói thấp trầm, sải bước dài, sao cho dáng điệu cử chỉ không còn vẻ yểu điệu của một tiểu thư khuê các. A La rất vừa ý, thất phu nhân tạm yên lòng, cười nói: “Nếu không phải là người quen, nhất định không nhận ra con là gái”.
Lần đầu hành động cảm giác có chút xúc động, căng thẳng, A La nhẹ nhàng vượt qua tường, rồi rút thang dây giấu kỹ, bụng nghĩ, như thế này đơn giản hơn cả leo núi. Nếu biết khinh công nữa thì tốt, bay đi bay lại tự do quá. Nghĩ đến tài khinh công của Lưu Giác, A La bất giác thấy ngưỡng mộ vô cùng, nếu không có chuyện với nhau, tìm chàng ta làm sư phụ thì tốt quá.
Sau khi tiếp đất bình an, xác định phương vị, A La rảo bước đi về khu thương mại, nhìn con sông nhỏ phía xa, lại đổi ý. Đi đến một góc vắng của tường viện, lấy sáo thổi khúc bình an thường ngày vẫn hòa tấu với tiêu. Tiếng sáo vừa vang lên, A La chú ý nhìn quanh, lát sau đã thấy tiếng tiêu vọng đến. Nghiêng tai lắng nghe, chính là từ phía sông vọng lại, bèn cất sáo đi về phía đó.
Tiếng sáo vừa dứt, tiếng tiêu liền ngập ngùng, cơ hồ cảm thấy lạ hôm nay sao tiếng sáo lại ngắn ngủi như vậy, sau đó lại tiếp tục vang lên.
A La đến gần bờ sông mới đi chậm lại, làm ra vẻ nhàn tản vãn cảnh. Không lâu sau nhìn thấy dưới rặng thùy liễu ven sông có một chàng trai đang ngồi, mình vận áo chùng màu tím, tay cầm cây ngọc tiêu. Thì ra người thổi tiêu là chàng ta, vì sao ngày nào cũng đến đây thổi tiêu? Chỉ vì muốn họa xướng với tiếng sáo của mình ư?
Cảm thấy phía sau có người, chàng trai quay đầu, thấy một tiểu công tử tuấn tú đang nhìn cây tiêu trong tay mình, bỗng bật cười: “Tiểu đệ đệ, đệ cũng thích tiêu ư?”.
A La nhìn chàng công tử tuổi chừng đôi mươi, lông mày dài hình lưỡi mác vếch đến tận tóc mai, ánh mắt thâm trầm, khóe môi thấp thoáng nụ cười mơ hồ, lại là một chàng thượng lưu. Nhìn diện mạo không phải hạng tiểu nhân, lại thêm chàng ta đã hòa tấu với mình lâu như thế, A La bỗng có thiện cảm, trả lời: “Tại hạ đi dạo bên sông, nghe tiếng tiêu du dương, lần theo tiếng ngọc đến đây, làm phiền công tử rồi