n lỉnh ra ngoài chơi, thế nên Vĩnh Nương mới sai riêng 1 cung nữ để mắt đến nó, giờ không thấy Tiểu Tuyết đâu, cô cung nữ ấy tức tốc trình bẩm với tôi.
Vĩnh Nương gọi nhiều người đi tìm, song không tìm ra. Tôi chẳng còn lòng dạ nào đi nhớ Tiểu Tuyết, tôi chỉ đang nghĩ cách làm sao để báo thù được cho mẹ. Giờ tôi lại cảm thấy Lí Thừa Ngân làm nhiều chuyện đáng hận thế, nếu chỉ đâm cho Lí Thừa Ngân 1 nhát dao chết ngay tức khắc thì dễ dàng cho chàng quá. Tôi đã bảo rồi, bao nhiêu đau đớn khổ sở chàng đổ xuống thân tôi, tôi sẽ trả lại bấy nhiêu cho chàng, trả dần dần từng chút một.
Hôm sau là Tết Đoan Ngọ, trong Đông Cung đang cắt xương bồ thì bỗng nhiên có cung nữ nhìn thấy một nhúm lông trắng nổi bập bềnh giữa hồ, lúc vớt lên xem mới biết là Tiểu Tuyết.
Rõ ràng nó bị dìm chết đuối.
Tôi thấy rầu rầu, bất kì là ai là thứ gì một khi đã ở cái chốn này, cuộc sống đều khốn cùng bi đát cả, đến 1 con mèo mà cũng không thoát nổi cảnh bất hạnh.
Tôi đoán Lí Thừa Ngân cũng biết chuyện, đến hôm sau thì chàng sai người đem một con mèo khác tặng tôi.
Cũng màu lông trắng y hệt, cũng đôi mắt y hệt, nghe nói chàng có lòng phái người đến chỗ sứ thần Xiêm La để xin, nhưng tôi chỉ ủ rũ ngồi yên vị, chẳng thiết ngó ngàng gì đến con mèo đó. Tôi còn chẳng ngờ cái chết của Tiểu Tuyết lại kéo theo cả sóng to gió lớn
Có người nhìn thấy cung nữ của Triệu Lương Đệ quẳng Tiểu Tuyết xuống hồ, Lí Thừa Ngân hay tin, bất ngờ nổi cơn lôi đình, liền phạt đánh cung nữ nọ 40 trượng, sau 40 trượng kia thì đương nhiên cũng chết dở sống dở. Vĩnh Nương tất tả chạy vào bẩm với tôi, đáng lẽ ra tôi không nên bận tâm thêm những chuyện vớ vẩn đâu đâu, nhưng mạng người quan trọng hơn cả, tôi buộc phải đến điện Lệ Chính.
Quả nhiên một bầu không khí u ám tiêu điều đang phủ lên điện Lệ Chính, Lí Thừa Ngân đi thay xiêm y, vẫn chưa ra. Mấy cung nữ quỳ ở góc điện còn đương sụt sùi khóc lóc. Tôi vừa bước vào, chưa kịp mở miệng nói lấy 1 câu, thì thái giám đã loan báo, Triệu Lương Đệ đến.
Hiển nhiên Triệu Lương Đệ cũng đến vội đến vàng, nom dáng vẻ xám xịt, vừa bước chân vào cửa điện đã quỳ sụp xuống, gào lên thống thiết: “Điện hạ ơi, thần thiếp bị oan…người của thần thiếp xưa nay vốn biết thân biết phận, tuyệt đối không làm những chuyện này, thần thiếp quả thực oan uổng quá…” chưa dứt lời, nước mắt đã tuôn như mưa.
Tôi trông cái kiểu tội nghiệp của ả, không kìm được tiếng thở dài, đoạn bảo Lí Thừa Ngân: “Thôi, cũng chẳng liên quan gì đến muội ấy.”
Tuy tôi thương Tiểu Tuyết thật, nhưng cũng chẳng đến nỗi vì 1 con mèo mà phải đánh chết đến vài người. Lí Thừa Ngân hằm hằm bảo: “Hôm nay hại mèo, thế nào mai sau cũng hại người!”
Rõ ràng Triệu Lương Đệ nghe xong thì tức lắm, đầu ngẩng phắt lên, mắt ngấm lệ: “Điện hạ cớ sao lại hoài nghi thiếp như vậy?”
Thoạt đầu, tôi định xin cho mấy cung nữ kia, vậy mà Triệu Lương Đệ lại chẳng biết điều. Ả gào lên: “Chính ngươi! Chắc chắn là ngươi, ngươi dựng sẵn cái bẫy này, ngươi thật nanh nọc! Ngươi trừ khử Tự Bảo Lâm, giờ quay sang hãm hại cả ta!”
Không đợi tôi lên tiếng, Lí Thừa đã nạt nộ: “Nói năng linh tinh!”
Triệu Lương Đệ quệt nước mắt, đoạn đứng thẳng người, nói: “Thần thiếp không hề nói linh tinh, Thái Tử Phi làm bùa nguyền rủa thần thiếp, nhưng lại đổ tội cho Tự Bảo Lâm. Cung nữ hầu hạ Tự Bảo Lâm do chính tay Thái Tử Phi chọn lựa, Thái Tử Phi sai bọn nó đặt bùa gỗ đào trong phòng Tự Bảo Lâm, sau khi sự việc bị phát giác, Thái Tử Phi lại lần lựa không nỡ điều tra, hòng gây chia rẽ thần thiếp và Tự Bảo Lâm. Chiếc bẫy “một mũi tên trúng hai đích” này của Thái Tử Phi quả là nanh nọc! Bẩm điện hạ, chuyện Tự Bảo Lâm qua đời rất kỳ quặc, cùng lắm thì cũng chỉ do thân thể có phần suy nhược, sao đến nỗi yểu mệnh qua đời được? Hẳn là bị kẻ khác giết người diệt khẩu!”
Tôi tức đến độ nói năng chẳng đâu vào đâu, liền lớn tiếng mắng át ả: “Ngươi nói láo!”
Triệu Lương Đệ ngước đầu nhìn tôi, khuôn mặt ả rõ ràng còn nguyên vệt nước mắt, vậy mà ánh nhìn lại bình thản khác thường, ả nhìn tôi: “Nhân chứng vật chứng đủ cả, xin thưa với Thái Tử Phi rằng, nếu như chẳng phải hôm nay người lại ám hại ta, ta cũng chẳng muốn giấu giếm hộ người làm gì. Thế nhưng người lại nhẫn tâm đến nỗi vừa giết Tự Bảo Lâm rời tay, đã vin ngay vào lý do con mèo hòng hại ta, người thật quá ác độc.”
Tôi phẫn nộ bảo: “Nhân chứng vật chứng gì, ngươi có giỏi thì lôi ra đây!” “Lôi thì lôi.” Nói rồi Triệu Lương đệ liền sai bảo bọn thuộc hạ mấy câu, chẳng mấy chốc, lũ người kia đã áp giải 2 cung nữ đến.
Tôi chưa bao giờ nghĩ, chuyện lại xoay chuyển đến nông nỗi này, hai cung nữ của Tự Bảo Lâm thú nhận rằng chính tôi đã sai chúng đặt bùa gỗ đào dưới giường Tự Bảo Lâm.
“Thái Tử Phi nói, người chỉ muốn trừ khử Triệu Lương Đệ thôi, nếu như thật sự nguyền chết được Triệu Lương Đệ, thì chắc chắn người sẽ đối xử tử tế với Bảo Lâm nhà chúng thần, rồi người sẽ khuyên điện hạ lập Bảo Lâm làm Lương Đệ, cùng nhau hưởng phú quý…”
“Thái Tử Phi cũng bảo, dù bị phát giác cũng đừng lo, đương nhiên người sẽ bênh Bảo Lâm…”
Tôi nghe hai đứa cung nữ ấy luôn mồm luôn miệng tố cáo mình, chợt thấy trong người lạnh toát.
Triệu Lương Đệ dàn dựng cái bẫy này bao lâu rồi? Tự khi nào, ả đã tính toán dẫn dụ tôi vào tròng? Trước kia cùng lắm thì tôi cũng chỉ cảm thấy, có lẽ ả không ưa tôi, hoặc ả rất ghét tôi, nói cho cùng thì tôi đã cướp ngôi vị Thái Tử Phi của ả, mà chung quy, lỗi là ở tôi, tôi chen ngang giữa ả và Lí Thừa Ngân. Thế nhưng tôi nào có ngờ, ả lại hận tôi đến thế.
Triệu Lương Đệ quỳ gối thưa: “Từ lúc thần thiếp phát hiện ra Thái Tử Phi có dính líu đến chuyện bùa ngải, thần thiếp chỉ nghĩ có lẽ người nhất thời hồ đồ mới làm vậy, thế nên thần thiếp vẫn bấm bụng, không dám hé răng oán thán bẩm với điện hạ, có điện hạ làm chứng, bấy lâu nay, trước mặt điện hạ, thần thiếp chưa từng kể lể gì về Thái Tử Phi, thậm chí, thần thiếp còn khuyên điện hạ nên gần gũi Thái Tử Phi, nỗi khổ tâm của thần thiếp, thật có trời cao chứng giám. Mãi đến khi Tự Bảo Lâm qua đời, thần thiếp mới nảy sinh ngờ vực, song chưa có lệnh nên không dám tự ý điều tra, trong lòng chỉ nhắc nhở mình nên đề phòng mà thôi. Chẳng ngờ Thái Tử Phi lại vin vào lý do con mèo hòng hãm hại thần thiếp, cớ gì thần thiếp lại đi giết một con mèo chứ? Chuyện quả là nực cười, hẳn Thái Tử Phi mượn cớ này nhằm chọc giận điện hạ, khiến người hắt hủi thần thiếp, xin điện hạ phân xử giúp thần thiếp!”
Lí Thừa Ngân đảo qua hai đứa cung nữ đang quỳ dưới sàn, qua một lúc mới nói: “Đã đến nước này, vậy điều tra chuyện Tự Bảo Lâm luôn một thể, đi lấy bã thuốc đã niêm phong ra đây.”
Sau đó còn triệu cả Thái y đến đối chứng, kết quả là, trong bã thuốc mà Tự Bảo Lâm uống thừa, lại tìm thấy hạt hoa mai. Tuy loại hạt hoa mai này không có độc tính, nhưng trong toa thuốc hằng ngày của Tự Bảo Lâm có rễ sâm, rế sâm sắc cùng hạt hoa mai sẽ tạo độc tính nhẹ, về lâu về dài, uống vào sẽ khiến cơ thể yếu dần cho đến lúc chết. Cung nữ sắc thuốc khai rằng, mỗi bận Thái y kê đơn xong, người đến lấy thuốc đều do Thái Tử Phi tôi sai đến. Cung nữ phụ trách sắc thuốc lại không am hiểu dược liệu, sắc xong xuôi thì dâng lên cho Tự Bảo Lâm uống, ngờ đâu trong thuốc có độc.
Có trăm cái miệng cũng không cãi nổi.
Với cái tính hấp tấp của tôi, chiếc bẫy chặt chẽ đến từng chi tiết này, có cho tôi đến 1 vạn cái mồm tôi cũng chẳng biện bạch hết.
Tôi giận quá đâm phá lên cười: “Cớ gì ta phải giết Tự Bảo Lâm? Lẽ nào một khúc củi khô lại có thể nguyền chết được ngươi, ta ngu mới rơi vào bẫy này?
Triệu Lương Đệ quay ngoắt mặt, nói với Lí Thừa Ngân: “Bẩm điện hạ…”
Lí Thừa Ngẫn bỗng bật cười: “Lòng dạ đàn bà là thứ hiểm độc nhất thiên hạ, quả nhiên vậy.”
Tôi nhìn Lí Thừa Ngân, qua một lúc rất lâu, mới thốt ra được 1 câu: ‘Chàng cũng tin ả sao?”
Lí Thừa Ngân lạnh lùng nói: “Sao ta lại không tin?”
Đột nhiên, tôi thấy nhẹ nhõm hẳn: “Đằng nào thì ta cũng ngán cái địa vị Thái Tử Phi này từ lâu rồi, muốn phế thì cứ phế đi.”
Phế đi, để tôi còn về Tây Lương.
Lí Thừa Ngân chỉ lạnh nhạt bảo: “Nàng đừng có tưởng bở.”