“Đau thương đến tan nát cõi lòng.” Giọng hắn đều đều, như thể đang kể một câu chuyện ngắn ngủi, “Lòng ta đã chết, thế nên ta muốn nàng cũng phải thế thử xem.”
Tôi nào có nghe rõ hắn nói gì, tư tưởng chỉ hướng về nơi cổng lầu chót vót trên cao mà xa lắc xa lơ kia kìa. Nơi ấy chính là Thừa Thiên Môn, đằng cổng thành ấy treo vô sô đèn lồng màu đỏ rực, điểm xuyết bằng những cụm đèn nhỏ đa màu sắc, hoa đăng tô điểm lên toà lầu thứ ánh sáng lung linh trùng điệp, hàng ngàn sa số bó đèn sáng rực vây lấy chân thành, ánh đèn hô hoán nơi cửa ô Thừa Thiên Môn bỗng chốc biến thành chốn lầu son gác tía lưng chừng trời. Bước lại gần hơn mới nhìn ra trên lầu còn buông phủ lớp màn che đỏ thắm, gió đưa mành lụa phất phơ, thấp thoáng sau màn có đội nghi trượngcùng bóng người. Búi tóc cao ngất của đám cung nữ lẫn trong dáng thướt tha yêu kiều đang dạo gót trên lầu, ánh đèn dán những chiếc bóng xinh đẹp của họ lên tấm màn, gợi tôi chợt nhớ đến màn kịch chiếu đèn dạo trước từng xem trên phố. Cổng Thừa Thiên sừng sững cao ngút trời, tôi trông lên thảy những cảnh trên tòa lầu ấy giống như kịch đèn được dán bìa giấy trắng, nhất cử nhất động đều khiến tôi cảm giác xa vời khó với.
Có âm thanh văng vẳng từ trên lầu sà xuống, thậm chí, ngay cả tiếng nhạc ấy cũng bị đẩy dạt vào xa xăm, người dưới chân thành bỗng nhiên ồn ào náo động hẳn, thì ra tấm màn trên lầu cao chợt khẽ lộ, đám cung nữ tung đồ xuống, dân đứng dưới nhốn nháo tranh nhau đoạt, họ ném xuống tiền vàng Thái Bình, do nội cục đúc riêng, ngự ban cho trăm dân đến ngắm hoa đăng. Những đồng tiền vàng vừa được rải, leng keng đáp xuống nền đá xanh nơi con phố Thiên Nhai, cứ như thể một cơn mưa rào lộng lẫy ánh vàng. Thiên triều giàu sang, thịnh thế thái bình, dồn cả vào trận mưa rào leng keng lanh canh…
*hôm qua bị bạn nó siết cổ dọa bảo không làm cho nhanh Đông Cung nó cắt tờ rym T^T sợ quá, hôm nay bật máy cái là phải post luôn, từ nay xin chừa không dám lề mề :0, chưa hề 1 lần tôi cảm thấy thảy những thứ ấy lại xa vời với mình đến thế, lại lạc lõng với tôi là vậy.
Tôi nhìn thấy Triệu lương đệ, nàng ta mặc trang phục hoàng tộc, từ đằng sau dạo gót tiến gần thành lầu, đành rằng không lộ diện, dẫu vậy tôi vẫn nhận ra bóng dáng đổ trên tấm rèm kia. Thế rồi lại trông cánh tay thò từ sau màn, choàng lên vai Lí Thừa Ngân một tấm áo lông đen tuyền. Trời trở gió, tấm áo bập bùng chao nghiêng, lớp gấm đỏ tươi trên áo choàng còn thêu hoa văn nổi bằng chỉ kim tuyến – thu cả vào mắt tôi, dưới ánh đèn nơi cổng thành, nó ánh lên lóng lánh. Lí Thừa Ngân ngoảnh mặt đi, khoảng cách xa xôi, tôi không tài nào nhìn rõ sắc diện trên khuôn mặt chàng, liệu chăng trên bờ môi ấy đang nở 1 nụ cười với người đẹp khuất sau rèm.
Xưa kia, tôi nào có được lên Thừa Thiên Môn, 3 năm rồi chưa từng cùng Lí Thừa Ngân ăn lấy một cái Tết, bao năm nay tôi nào có hay, thì ra mỗi độ Nguyên Tiêu, chàng và Triệu lương đệ lại sánh đôi nơi cao chót vót, kề vai ngóng xuống 10 vạn đèn hoa bao phủ Thượng Kinh.
Đôi lứa cùng nhau, đêm nay đây, đêm này chính là ngày lành tháng tốt để mà kết lứa xe đôi.
Tôi vẫn ngỡ tưởng, chúng tôi đã đổi thay, tôi còn tưởng rằng, chuyện đã xảy ra ngày hôm qua, đáng lẽ phải có sự khác biệt chứ. Tối qua lúc tôi bị thích khách bắt đi, chàng từng nhìn tôi, chàng từng gọi tên tôi, chàng bẻ tên thề. Tất thảy, thảy những thứ ấy đều khiến tôi ngộ nhận, đôi ta đã đổi thay, thế nhưng sao vỏn vẹn có 1 ngày, chàng đã đứng kia, đã sánh vai bên người con gái khác đứng kia, ra điều ta đây chẳng từng xảy ra chuyện gì, ra điều thờ ơ thưởng thức cảnh Nguyên tiêu đô hội, đón nhận câu chúc phúc của muôn dân.
Trong khi, tôi sống chết ra sao còn chưa hay, trong khi, tôi đáng lẽ mất tăm mất tích, trong khi, tôi mới là vợ chàng kia mà.
Thoáng nghe có ai đó gọi tên mình: “Tiểu Phong.”
Tôi quay sang, bần thần nhìn Cố Kiếm.
Mắt hắn dán ở nơi tôi, môi tôi lừng khừng nặn một nụ cười, định bụng nói dăm câu.
Thế mà gió ùa trong khuôn miệng vừa hé mở, gió buốt lạnh kéo theo cơn ho không buồn nguôi ngoai, cổ họng trước đó đã đau ghê người, giờ đây từng cơn ho như chực xé toạc cả yết hầu. Ho cơn nào đầu nhói theo cơn đó, chẳng khác nào có cục đá bị nhét trong ấy, cạnh sắc nhọn của nó cứa vào huyết mạch, muốn thở cũng phải chật vật. Tôi còng lưng ho không dứt cơn, chực sắp ho ra nào tim nào phổi, cơn ho hòng như cố sức lôi nội tạng trong người ra ngoài kì được mới thôi. Đau là lẽ đã đành, thế mà chỉ duy có lồng ngực, chỗ ấy khó chịu lắm thay, trách chăng cái lạnh, trách chăng người vốn đang sốt cao… có bệnh tất phải khó chịu thế thôi.
Cố Kiếm đỡ tôi, tôi lảo đảo một chặp, thấy như thể có gì đó thế là đã nứt đôi, khi âm thanh khàn đặc thoát ra khỏi cuống họng, dường như lồng ngực cũng được vỗ về phần nào.
Hắn nâng mặt tôi, tôi nghe thấy tiếng mình: “Cũng chẳng có gì ghê gớm…” vậy rồi, trong đôi mắt ấy đã hằn lên tia khổ sở méo xẹo, hắn chợt đưa tay quệt khóe miệng tôi.
Dưới ánh đèn, tôi thấy ngón tay hắn đọng vệt máu, máu bám cả trên ống tay áo, những ngấn loang lổ, từng đốm từng đốm, thảy toàn là máu tươi. Cơ thể nhũn nhùn, người tôi xây xẩm, đoán chắc mình đứng không vững, như thể mới rồi tôi bán mạng nôn ra cục máu ấy. Hắn ôm tôi, thầm thì bên tai tôi nói: “Tiểu Phong, nàng khóc đi, nàng cứ khóc một trận cho thỏa đi.”
Tôi đẩy hắn bằng thứ hơi sức cuối cùng: “Sao phải khóc? Ngươi cố ý dẫn ta đến xem cảnh này cơ mà, sao ta phải khóc? Ngươi không cần vờ vĩnh như thế, sao ta phải khóc chứ? Ngươi bảo xem xong thì ngươi thả người, giờ ta phải về rồi!”
“Tiểu Phong!” Hắn đuổi theo toan đỡ tôi. Bước chân loạng choạng, song vẫn cố đứng vững, tôi ngoái đầu, tuốt trâm hoa cài tóc quẳng xuống chân hắn, lạnh nhạt nhìn đoạn bảo: “Cấm ngươi đụng vào ta, cũng đừng có theo ta nữa, bằng không ta chết trước mắt cho ngươi xem, đành rằng ngươi có võ công tuyệt thế, ngăn thế nào được một khi ta đã khăng khăng muốn chết, ngươi cản được 1 lần, cản sao được cả đời. Ngươi cứ thử theo ta mà xem, ta thể nào cũng tự sát kì được đấy.”
Có lẽ giọng tôi lúc đó cương quyết lắm, nên hắn cũng chững lại một chỗ, không dám tiến gần.
Tôi đá bước thất tha thất thểu, chẳng biết đã đi được bao xa, bốn bề bao bọc là người, bốn bề bao bọc là đèn chói lòa. Tôi túm chặt cổ áo khoác, cảm nhận thân mình lẩy bẩy từng cơn run, lạnh đến nỗi răng lợi va vào nhau lập cập, tôi biết mình đương cơn sốt, chân bước ngỡ đạp lên cát, mềm oặt ẹo chẳng mấy sức lực. Bải hoải đứng dưới dàn đèn, khắp nơi là tiếng cười hoan ca vô bờ bến, người qua người lại rộn ràng nhộp nhịp tựa thoi đưa, tháp Thất Tinh bắn từng chùm pháo hoa lộng lẫy nở rộ trênbầu trời cao ngất, Nguyên tiêu rực rỡ màu sắc, Nguyên tiêu phồn hoa đô hội, tôi đi đâu về đâu?
Gầm trời bao la này, hỏi có chốn nào cho mình dung thân.
A Độ ơi, A Độ ơi, ngươi ở nơi nao? Chúng ta về Tây Lương đi thôi, ta nhớ Tây Lương rồi.
Trước mắt tôi là một lồng đèn kéo quân, chao đèn dán giấy thếp vàng hình một người con gái, hơi nóng giẫy từ ngọn nến uốn lượn tỏa ra, chao đèn không ngừng quay tròn, người con gái đó thoắt đứng thoắt ngồi thoắt yêu kiều thoắt giận dữ, lại thoắt hoan hỷ… Trước mắt cứ sụp tối dần, người con gái dán trên đèn sao có nét hao hao Triệu lương đệ, nàng ta bưng miệng cười, ngạo mạn cười bảo tôi: Tỷ nghĩ có chi khác ấy à? Tỷ tưởng rằng mình chiếm được chỗ đứng trong lòng chàng rồi ư? Tỷ tưởng mình làm con tin thay bệ hạ, chàng sẽ rủ lòng tiếc thương vài phần ư…
Ngặt nỗi vố này rõ công toi.
Tôi dựa vào thân cây mới đứng vững, lớp vỏ sần sùi thô ráp cào vào áo lông buốt đau, nhưng thà rằng thế tôi mới thấy dễ chịu… Chỉ cần cơn đau nhức ấy làm vơi đi cái sự âm ỉ trong lồng ngực. A Độ thì chẳng thấy đâu, ở thành Thượng Kinh này, tôi thành ra bơ vơ trơ trọi. Tôi có nơi nao để đi? Một thân một mình về Tây Lương, dẫu phải đi 1 tháng, 1 tháng không đến thì 3 tháng, 3 tháng chưa tới thì nửa năm, nửa năm vẫn không đặng, đi hẳn 1 năm, thế nào chẳng về được Tây Lương.
Lúc ấy ngước mắt trông trăng, một ánh trăng rằm tròn đầy, sáng trong, dịu dàng soi tỏ từng mặt người. Thượng Kinh phồn hoa yên bình hiển hiện cả dưới ánh trăng, dạo trước đây, tôi và A Độ từng vô số lần dạo khắp phố lớn ngõ nhỏ ở Thượng Kinh, hiềm nỗi nơi này mãi mãi không phải nhà tôi, tôi phải về nhà mình thôi.
Tôi chậm rãi đi về phía tây thành, muốn tìm về Tây Lương, ắt phải qua Quang Hoa Môn, rồi cứ thẳng tiến phía tây, cứ thẳng về phía tây, qua được Ngọc Môn Quan đã là Tây Lương.
Tôi phải về nhà thôi.
Tôi còn chưa chạm mặt Quang Hoa Môn, bỗng nhiên nghe dân xung quanh thất thanh la hét, nhiều người trở nên xôn xao, có người gào lên: “Thừa Thiên Môn có cháy!”
Tôi cứ ngỡ mình nghe nhầm, mọi ánh nhìn đổ dồn về Thừa Thiên Môn nơi phía Nam, đằng ấy thoáng có bóng lửa chập chờn, cột khói đen dày đặc bốc lên cuồn cuộn từ mái vòm, ai nấy đều bụm miếng kinh hãi, giương mắt nhìn ngọn lửa bốc lên dữ dội bao chùm toàn bộ thành lầu. Thảy những chuỗi đèn như châu như ngọc, thảy những mành rèm thắm đỏ, thảy những mái hiên sững sững đồ sộ….chỉ vừa mới rồi thôi, giờ đây đã bị khói và lửa nuốt trọn, đám cháy mỗi lúc một to, lửa bùng thêm mãnh liệt, gió được đà bốc ngọn lửa lên cao, Thừa Thiên Môn bừng bừng phát cháy.
Cả con phố bỗng trở nên hỗn loạn, lúc này cả đường nhốn nháo, ai cũng chỉ lo chạy tháo thân, thì còn biết làm gì vào lúc này. Chênh chếch bên kia đường đã xuất hiện vài đội Thần vũ quân, tôi nghe họ quát tháo ầm ĩ, hò dân chúng tự giác nhường đường, vó ngựa quét qua chẳng khác nào cơn lốc, thế rồi đám người cứu hỏa cũng rầm rập xuất hiện, họ vác theo ống gỗ, người ta kéo những thùng xe lớn chở đầy nước lao như bay về đằng hỏa họan, tiếng lộc cộc lê dài con chợ. Tết Nguyên tiêu hằng năm, năm nào chẳng đốt pháo bông, lại còn chăng ối đèn lồng, hễ cháy nổ ra đấy thế nào cũng gây họa lớn, vì lẽ đó mà quan Kinh triệu doãn hằng năm đều chuẩn bị sẵn ống cứu hỏa và xe nước, giả như dân có gặp cháy cũng có đường dùng, chỉ là không ngờ năm nay lại gặp dịp dùng vào việc lớn.
Tôi đánh mắt trông phía Thừa Thiên Môn lúc này đang bị Thần vũ quân vây kín, thoáng chốc đã thấy môt toán cung nhân bưng nghi truợng, lay lắt nối đuôi Thần vũ quân đi về đằng Hoàng cung trên một quãng đường dài ngoằn ngoèo, tôi tự nhủ ắt cũng chẳng xảy ra chuyện to tát.
Mà đáng lẽ, tôi chớ có nên lo lắng làm gì, người trên Thừa Thiên Môn ai chết ai sống, nói cho cùng, giờ đâu còn dây mơ rễ má gì với mình mà vác chuyện vào thân cho rách việc.
Giờ chỉ lo về Tây Lương, chỉ muốn bảo với cha con đã về, rồi lôi con ngựa nhỏ của mình ra, lao băng băng trên thảo nguyên, tựa như những ngày tháng vô tự lự dạo còn bé.
Tôi dồn sức tiếp tục cuộc hành trình về phía tây thành, ngựa của Thần vũ quân vút qua bên mình, chỉ kịp nghe roi quất vun vút lẫn trong tiếng gào thét ran trời: “Hoàng thượng có chỉ! Đóng chín cổng thành!” tiếng họ ngân vang kéo dài, phóng qua một đoạn rõ xa vẫn còn vẳng lại, “Hoàng thượng có chỉ! Đóng chín cổng thành!” Hoàng thượng có chỉ! Đóng chín cổng thành!”…
Tết Nguyên Tiêu đã trải qua hàng trăm năm thịnh vượng, xưa nay chưa từng xảy ra chuyện này, song dân chúng cũng không lấy làm lạ, sở dĩ họ vẫn chưa hết bàng hoàng kể từ lúc vụ cháy xảy ra quá đỗi đột ngột, đến tận lúc này họ còn đang bà