Đàn kiến ra khỏi tổ, bò về một hướng nào đó, tìm được đồ ăn lại tha về tổ, bỏ vào đó, sau đó lại đi theo một hướng khác, lại tha về tổ. Từ trên cao nhìn xuống, đàn kiến như đang vẽ một vòng tròn lớn mà tâm là tổ của chúng.
Thời gian này, nếu quan sát chiếc xe của tôi từ trên máy bay, chắc sẽ nhận ra quỹ đạo của nó rất giống quỹ đạo kiếm ăn của loài kiến. Chỉ có điều tâm đường tròn của tôi thường xuyên thay đổi, lúc thì là Lệ Giang, lúc thì là Đạo Thành, lúc lại là Hương Cách Lý La, rồi cả Thụy Lệ. Tôi giống như một chú kiến thợ chăm chỉ, không ngừng thay đổi trung tâm, thay đổi bán kính, mang theo lòng tin sâu sắc đi khắp nơi tìm kiếm Lông Mi, không hề nản lòng nhụt chí.
Tôi tìm đến hồ Lô Cô.
Không có tin tức gì, đành vào một nhà dân gần đó xin trú tạm.
Ngồi ngoài vườn uống rượu Tô Lý Mã đặc sản, ăn sườn lợn, ngắm cảnh núi Lạc Mẫu Thần Sơn (Núi Sư Tử), lòng lại nhớ đến Lông Mi.
Ngoài vườn còn có một cô gái cũng ngồi thần người ra tắm nắng, nét mặt mệt mỏi. Khói xì gà của tôi hình như đã làm phiền đến cô, chỉ thấy cô vung tay xua xua làn khói mỏng. Tôi vội dập thuốc, rồi xin lỗi. Cô gái chỉ cười cười, rồi bảo không có gì. Hai người liền bắt chuyện với nhau.
Cô gái này cũng thích đi du lịch. Cô dẫn tôi về phòng, Hồ Lô Cô ở ngay ngoài cửa sổ, chỉ cần thò tay xuống là chạm được làn nước trong mát. Trên giường vứt một chiếc ba lô to tướng. Cô gái kể mình vừa đi bộ từ Hổ Khiêu Hiệp về đây. Chúng tôi kể cho nhau nghe về những chuyện mình gặp trên đường, kể chuyện ngắm cảnh mặt trời lặn trên núi tuyết, nói đến tận nửa đêm, rồi chia tay về phòng đi ngủ.
Gần sáng, cô gái đột nhiên đẩy cửa vào phòng tôi, nói điểm đến tiếp theo sẽ là Thiếu Lâm Tự, cô định tới đó học võ một năm, rồi lại hỏi tôi định làm gì? Tôi nghĩ một lúc lâu, rồi nói nếu không có mấy chuyện liên quan đến tình dục dính vào đây thì hoàn toàn có thể suy nghĩ về vấn đề này. Cô gái vội đưa tay lên miệng, trên gác là bàn thờ tổ mẫu của người dân tộc ở đây, không được nói chuyện đó, nếu không sẽ xúc phạm đến thần minh. Cả hai cùng cười phá lên. Cô gái lại nói mình đã nhìn thấu sự đời, nên muốn đến luyện công, thậm chí là đi tu cũng được, rồi lại nói đã đi một mình hơn hai tháng rồi, muốn tìm một bờ vai rắn chắc để dựa vào, hỏi tôi có muốn ngủ chung không? Chỉ cần cho mượn bờ vai thôi cũng được? Tôi cười cười đồng ý, vậy là cô nàng liền nằm luôn lên giường.
Cô gái nói:
- Chúng ta thực tập kiểu cưới chạy ở đây một lần nhé?
Tôi lắc đầu đáp:
- Làm vậy sẽ xúc phạm đến thần thánh đấy, không được đâu!
Cô gái bật cười:
- Vớ vẩn!
Tôi đành thở dài mang chuyện Lông Mi ra kể vắn tắt cho cô nghe. Cô gái rất cảm động, thở dài tiếc nuối vì không tìm được người nào như tôi, không tìm được tình yêu thật sự, không tìm ra lẽ sống cho mình, đành đem tất cả gửi gắm vào những chuyến đi dài, bôn ba giữa núi cao nước thẳm, lưu lạc trên miền biên giới của đạo đức và linh hồn, không tìm được chốn về. Vừa nói cô vừa rơi mấy giọt nước mắt. Tôi đành an ủi nói:
- Tôi là một kẻ chẳng ra gì, cuộc đời thì hỗn loạn, rất hay mất đồ, thậm chí cả vợ cũng để mất, nếu không thì cũng đâu đến nỗi phải bôn ba như vậy.
Cô gái thấy thế thì liền quay ngược lại an ủi tôi, nói như vậy đã là tốt lắm rồi, ít nhất là mất đồ còn biết đi tìm. Hai người cứ an ủi qua an ủi lại như vậy, một lát sau thì ôm nhau ngủ thiếp đi, trong đầu không vương vấn một chút dục niệm nào.
Tôi đến Đạo Thành.
Nơi đây là tận cùng của Hương Cách Lý La, không lớn lắm, rất dễ tìm. Tất nhiên cũng dễ khiến người ta sớm nản lòng.
Sau một chặng đường dài mệt mỏi, tôi ngồi trước một căn nhà đá nghỉ ngơi.
Mặt trời ra sức chiếu lên người tôi những tia ấm áp. Tôi cầm tấm ảnh cũ của em, ngồi thừ người ra ở chân tường. Trước mắt tôi là những người dân tộc Khang Ba thô lỗ hào phóng nhưng rất hiền lành hữu hảo, còn có rất nhiều khác du lịch ba lô đang trên đường tìm kiếm chân lý của cuộc đời nữa. Nhìn mãi cũng phát mệt, tôi từ từ nhắm mắt lại, rồi ngủ thiếp đi trên góc phố.
Lúc tỉnh lại, mặt trời vẫn ấm áp.
Một cô gái dân tộc Khang Ba không hiểu đã đứng trước mặt tôi từ lúc nào, đầu đội khăn đỏ, chỉ để lộ đôi mắt thuần khiết. Trên vai cô khoác một tấm da dê, mặc một chiếc áo bông vàng của người Khang Ba, bên dưới mặc váy đỏ vàng xanh.
Một chiếc máy cày tay xình xịch chạy qua. Người lái là một anh mặc áo bông kiểu người Khang Ba, mặt mũi có vẻ thô lỗ hào sảng, đầu tóc rối bù. Bên cạnh có một đứa bé mặc quần bông, toàn thân chỗ nào cũng đầy bùn đất. Mặt trời chói chang làm đứa bé phải nheo nheo mắt lại, trông rất đáng yêu. Anh chàng kia kéo cô gái lên máy cày, rồi lại xình xịch chạy đi. Lúc này anh ta mới nhìn thấy tôi, không ngờ còn vui vẻ vẫy tay chào nữa. Tôi không động đậy, cũng không tỏ vẻ gì, vậy mà anh ta cũng không để ý, chỉ cười cười, rồi lái máy cày đi.
Còn lại một mình, tôi lại ngồi ngẩn ra, vừa ngạc nhiên vừa ghen tị trước cuộc sống hạnh phúc không liên quan gì đến giàu có hay nghèo khổ của họ.
Tôi đến chùa Bôn Ba.
Một hòa tượng đang vãi gạo xuống cho bày gà Tạng Mã ăn, thỉnh thoảng lại có một con thỏ hoang phóng vút ra ăn tranh mấy miếng rồi bỏ chạy. Xa xa có một bà già đang loạng choạng bê một chồng kinh.
Bà bê được một đoạn thì ngồi xuống nghỉ ngơi.
Tóc bà đã bạc gần hết, trên cổ quấn một chiếc khăn len xanh, áo bông màu nâu sòng đã thủng mấy lỗ, tay áo xắn lên để lộ lần vải lót màu trắng bên trong. Nếu không có mái tóc bạc kia, quả thật là không thể nhận ra được đây là bà lão hay ông lão nữa. Khi mà giới tính đã mất đi ý nghĩa đối với một ai đó, chắc bạn cũng hiểu cảm giác nó như thế nào.
Bà lão hờ hững nhìn về phía trước. Một lát sau thì bà quay sang nhìn tôi, đưa một tay lên che miệng, tay kia lần hạt chuỗi, mắt vẫn chăm chú nhìn về phía tôi. Tôi cũng chăm chăm nhìn lại bà. Hai sinh vật được gọi là loài người ở hai gi ai đoạn khác nhau của cuộc đời, cứ thế hững hờ nhìn nhau chằm chằm, cảm nhận ý nghĩa hoàn toàn khác nhau của thời gian đối với người kia.
Da mặt và da tay bà lão nhăn nheo, thậm chí hơi khô kiệt. Bà hơi chau mày lại, dường như đang nghĩ ngợi gì đó, gương mặt phủ một lớp tử khí trầm trầm.
Ánh mắt chợt trở nên sinh động.
Rồi không hiểu sao, bà lão đột nhiên nhoẻn miệng cười, buông tay xuống, đặt lên đùi, cuối cùng thì gương mặt hờ hững kia cũng biến thành một nụ cười ấm áp như chúc phúc. Hình như vừa rồi bà lão đang ôm toàn bộ nước biển trên thế giới, rồi đột nhiên đổ xuống tất cả các sa mạc vậy.
Dường như bà quyết định làm hòa với đối thủ mình đã tranh đấu cả đời – thời gian?
Bà thở dài một tiếng, dường như để cổ vũ cho chính mình, rồi chống tay vào tường đá đứng dậy, tiếp tục bê kinh sách.
Tôi vẫn ngẩn người ra nhìn theo bóng bà.
Đến Duy Tây.
Xem tang lễ của người Lật Túc ở thị trấn Lỗ Diên.
Bốn bà lão người Lật Túc, ngồi dựa vào tường gỗ, đầu đội từng lớp khăn dày màu xanh đậm, mặc áo bông, cổ thẳng thớm thứ không tầng tầng lớp lớp như áo của người Tạng, quần rộng thùng tình, chân đi dày đế cao su dày màu xanh lục.
Các bà đang tổ chức “lễ Linh Ca” cho người chết: ngồi xung quanh bếp lửa hát thâu đêm để siêu thoát cho linh hồn người chết, an ủi người nhà. Sắc mặt các bà đều rất hiền hòa an định, không hề có chút bi thương. Nghe nói trong các bà cũng có cả thân thích của người chết nữa, có lẽ họ thực sự tin rằng linh hồn người chết đã được siêu thoát, đang trên đường tới Thiên Đường, hoặc ít nhất là bên cạnh Thiên Đường.
Tôi nhớ lại khúc Cầu hồn của Mozart. Khúc nhạc tuy vô cùng cảm động, nhưng cũng không thể nào so bì với tiếng ngâm nga nguyên thủy không cần bất cứ nhạc khí nào này, tuy rằng nó cực kỳ đơn giản, hơn nữa lại lặp đi lặp lại không biết bao nhiêu lần. Trong khoảnh khắc ấy, nét mặt an lành và ánh mắt lạc quan như đang tiễn người thân đi xa của các cụ có một sức mạnh trời long đất lở, phát nát cái gọi là khái niệm về cuộc sống trong tôi.
Tôi cũng hát theo mấy câu, các bà nghe thấy không hề tỏ vẻ không vui, thậm chí còn mời tôi vào hát chung. Tôi chỉ mỉm cười từ chối. Tôi hát cho Bì Tử, cho Trát Ba và cho cả Trà Sữa nữa, không thể coi là một với đối tượng đang được các bà hát cho nghe được. Bì Tử với Trát Ba thì đã đi rồi, nhưng còn Trà Sữa, nghĩ đến nó tôi lại thấy lòng như sát muối.