Chúng tôi ngồi nói chuyện, nói mệt rồi thì xem sách, xem sách chán lại nghe nhạc, nghe nhạc chán thì đi ngủ, tỉnh dậy lại tiếp tục nói chuyện, đói thì gọi quán anh cạnh đó mang đồ lên, vừa ăn vừa uống rượu, ăn xong lại nói chuyện tiếp. Mấy ngày sau, vết thương của cả hai đã đỡ nhiều, ban ngày tôi ra tiệm của Trát Ba giúp đỡ, đến tối chờ Kha Lan về, ba người chúng tôi lại dọn đồ đi ăn. Ăn xong thì vác bia ra chợ ngồi nhìn mọi người nhảy múa các điệu vũ Tân Cương đặc sắc.
Cứ đến chiều tối là có các ông già người Duy ra ngồi thành một vòng lớn dưới đất, thổi kèn, đàn Donbula, gõ các loại trống khác nhau. Các cô gái chàng trai địa phương và các du khách đều hoan hỉ nhảy múa rất vui vẻ.
Trát Ba rất hào hứng, cậu ta kéo Kha Lan ra nhảy chung với mọi người. Họ dơ tay cao quá đầu, eo hông lắc theo nhịp điệu, mũi chân không ngừng nhún nhảy. Ánh hoàng hôn rải trên người họ, tạo thành một đôi bóng dài lắc lư trên mặt đất.
Tôi nhìn Trát Ba và Kha Lan, trong lòng bồi hồi cảm động.
Có lẽ hạnh phúc chính là đây.
Trở về khách sạn, cảm giác xúc động đó vẫn còn trào dâng như sóng cuộn.
Tôi ngồi nghĩ một lát, rồi chạy ra quầy, gọi điện cho Lông Mi ở nhà. Mãi không thấy ai bắt máy, đành bỏ cuộc.
Lại gọi điện về quán. Trà Sữa nghe máy, nó nói mọi chuyện đều ổn, bảo tôi đừng lo. Hỏi thăm Bì Tử, nhưng cậu ta không ở quán, không biết lại lượn đi đâu mất. Tôi buông máy, ngồi ngẩn người ra trong sân một lúc lâu.
Đột nhiên nhận ra nếu có một người trong lòng để mà nhớ nhung, để mà lo lắng thì thật hạnh phúc biết bao?
Chợt thấy xót xa.
Một hôm, Trát Ba đột nhiên quyết định đến các làng ở xa thu mua hàng hóa.
Tôi tỏ ý muốn đi cùng, cậu ta liền gật đầu vui vẻ đồng ý. Hai người thuê một chiếc xe hàng cũ kỹ rách nát, đem các đồ dùng cấn thiết khi đi đường vứt lên thùng xe, rồi tạm biệt Kha Lan, lên đường từ sáng sớm. Kế hoạch của tôi với Trát Ba là đi vòng ra phía Tây Bắc sa mạc Taklimakan, thẳng tiến theo con đường song song với sông Tarim.
Cậu ta bị ảnh hưởng của tôi, lúc lái xe nhất định phải nghe nhạc mới chịu được.
Tôi bật một album của Nirvan Trát Ba hỏi ban nhạc nào đang hát? Nghe tôi bảo là Nirvana, ca sĩ chính Kurt Coban đã tự sát. Cậu ta liền cười cười, bảo chẳng trách, nghe thứ nhạc này mà không tự sát mới là lạ, nói gì người đã viết ra nó. Rồi cậu ta lại hỏi tôi xem Kurt tự sát thế nào? Tôi nói, ngậm họng súng vào miệng, rồi lẩy có, một tiếng nổ vang, đầu nát toét, vô cùng bi tráng. Trát Ba nghe xong thì cười, nói còn có chuyện bi tráng hơn nữa, chính là sau khi chết đi, được thiên táng trên tảng đá lớn ở di chỉ Cổ Cách, nằm đó cho lũ chim ưng đầu hói ăn thịt. Tôi hỏi tại sao phải đến tận Cổ Cách. Trát Ba nói đó là ngôi nhà tinh thần của cậu ta, nhà ở ngay gần đó, mỗi khi gặp chuyện gì khó khăn, chỉ cần tới khu di chỉ đổ nát đó ngồi một lát là lập tức tìm được phương cách giải quyết, vô cùng thần ký. Tôi thay đĩa “Trở về Lasa” của Trịnh Quân vào, rồi cùng Trát Ba hưng phấn hát theo đến lúc khản cả cổ mới thôi.
Chúng tôi lái xe qua núi Thiên Cách Nhĩ cao vút. Đến chạng vạng tối thì đến được Korla.
Trát Ba dẫn tôi đến một khu chợ bán thổ sản địa phương. Ở đây có đủ thứ hình thù kỳ lạ, nhìn rất bắt mắt. Cậu ta cẩn thận xem xét từng thứ một, do dự hồi lâu trước một mảnh gỗ sứt mẻ lung tung, nghe nói mảnh gỗ này được lấy từ thành cổ Lâu Lan, giá rất cao. Trát Ba đứng thần người ra nhìn một lúc, thở dài vì đồ vật trong thành cổ bị trộm đem ra ngoài bán, rồi nói ước mơ lớn nhất đời mình là tìm ra một di chỉ giống như Lâu Lan hay Cổ Cách. Chúng tôi chọn mua một ít răng thú, sừng và da thú. Tối đến, hai người ngủ trong phòng ngủ chung của khách sạn, các khách khác cứ ngáy pho pho như sấm, trông chẳng khác gì cái chuồng lợn.
Trời mới tờ mờ sáng, Trát Ba đã gọi tôi dậy,
Xe hàng đi khỏi Korla, rời khỏi đường quốc lộ đi vào con đường nhỏ ghập ghềnh khúc khuỷu. Chắc bao lâu sau chúng tôi đã qua sông Khổng Tước. Trát Ba bảo con sông này nối liền hồ Bác Tư Đằng và Luobupo. Tôi nói có thể ngồi thuyền đi Lu obupo. Hai người cùng cười phá lên. Nói đến Lu obupo, tất nhiên không thể không nói đến Bành Gia Mộc và Dư Thuần Chân. Nhắc đến Dư Thuần Chân, Trát Ba có vẻ rất tôn kính, nói Dư Thuần Chân đã làm thay đổi cách nhìn của cậu ta với người Hán: hồi trước cứ luôn cho rằng người Hán không thể chịu khổ, chỉ biết ngồi ở thành phố mà châm chọc người sống trong sa mạc, Dư Thuần Chân đã cho cậu ta biết thế nào là anh hùng. Trát Ba có một nguyện vọng là được đến trước mộ Dư Thuần Chân, xem thử linh hồn của người anh hùng còn lẩn khuất nơi nao.
Đến trưa, thì chúng tôi qua sông Tarim, lên đến đường quốc lộ chạy ngang sa mạc
Ngồi xuống ven đường, lấy bánh mì, thịt trâu và nước suối ra ăn nhồm nhoàm. Con đường trước mặt kéo dài mãi dài mãi rồi biến mất ở đường chân trời. Trát Ba nói cứ đi thẳng thì sẽ đến Tây Tạng, vùng đất của các linh hồn. Ăn xong, hai chúng tôi nằm xuống vệ đường nghỉ ngơi. Trát Ba nằm một lúc đã ngáy đều đều, còn tôi thì nằm nghe “Texas, Paris”. Ở trong không gian này mà nghe thứ nhạc này thì quả thật không còn gì hợp hơn nữa. Thật khâm phục sự sâu sắc mà một cây ghi ta có thể tạo ra, sức hấp dẫn thậm chí còn mạnh hơn cả giàn nhạc gi ao hưởng.
Rời khỏi quốc lộ, đường đi càng thêm khó khăn. Chúng tôi đến Ca Thập thu mua một ít hàng hóa ưa thích. Nhưng không có răng báo của Trát Ba. Đối phương bật cười: “Thời buổi này biết đi đâu tìm báo bây giờ?” Trát Ba không hề nản lòng, đi đâu cũng hỏi răng báo.
Chúng tôi rời Ca Thập, qua Diệp Thành đến Hòa Điền. Hòa Điền là một thị trấn nhỏ ở Nam Cương vẫn còn giữ được phong vị độc đáo của Tân Cương. Ở đây rất khó tìm được người nào nói lưu loát tiếng Hán, còn tiếng Duy của Trát Ba thì cũng chẳng ra sao, cuối cùng chúng tôi phải đến trường tiểu học mời một thầy giáo tiếng Hán làm phiên dịch. Tiếng Hán của thầy giáo người Duy này cũng không được ổn lắm, nhưng cũng có thể miễn cưỡng chấp nhận. Lúc đi, không có gì để cảm ơn, tôi liền lấy luôn quyển sử thi Ilias mang theo trong túi tặng cho ông ta.