tisse, màu sắc đương nhiên càng dữ dội càng hoàn hảo.” Hàn Tử Ngang đã ăn hết bát chè khoai thứ sáu nhưng tay vẫn tiếp tục giữ cái bát trống trơn hướng về Hoa Lạc Lê chờ đợi ánh mắt như một đứa trẻ đợi mẹ đi chợ về.[Matisse: Nghệ sĩ người Pháp, là người tiên phong của trường phái dã thú. Ông được đánh giá là bậc thầy trong nghệ thuật sử dụng màu sắc.]
Hoa Lạc Lê khóe miệng giật giật, tiếp tục múc chè khoai cho anh. Anh chàng này giống người bị cảm sao? Sao có thể cắm cúi ăn như thể cả tuần nay chưa được ăn gì như vậy?
Hàn Tử Hiên và Hàn Tử Ngang tuy là anh em sinh đôi nhưng chịu khó để ý một chút là có thể phân biệt được. Hàn Tử Ngang tuy có lúc ngang bướng và độc đoán nhung đôi mắt anh lại trong sáng, thuần khiết như ánh mắt của trẻ nhỏ. Còn Hàn Tử Hiên tuy luôn điềm đạm, lịch sự nhưng đôi lúc khiến người khác có cảm giác ánh mắt anh có gì đó ranh ma, láu lỉnh như mắt cáo.
“Phong cách Matisse là thế nào?” Hoa Lạc Lê vừa lật xem tranh vừa hỏi.
Nói thật, cô thích những bức họa đơn thuần dùng màu sắc như thế này, màu sắc kết hợp rất táo bạo, tạo cảm giác mới lạ cho người xem. Giống như một thứ cổ vũ, một loại an ủi hoặc như một cái ghế đặc biệt có thể giúp người ngồi trên nó tiêu trừ mọi phiền muộn, âu lo.
“Trường phái dã thú (Fauvism hay Les Fauves) là một trường phái nghệ thuật tồn tại trong thời gian ngắn của một nhóm họa sĩ hiện đại. Trong khi phong cách nghệ thuật dã thú bắt đầu từ năm 1900 và kéo dài qua năm 1910, thì trường phái này chỉ tồn tại trong vòng ba năm, 1905 đến 1907, và có ba cuộc triển lãm. Đứng đầu trường phái này là họa sĩ Henri Matisse người Pháp. Trường phái Dã thú có sự phản kháng mạnh mẽ chống lại trường phái ấn tượng, chống lại sự mất mát không gian do dùng quá nhiều ánh sáng, do sự phân tích tỉ mỉ, không theo quy luật nào, vì thế chỉ là sự ngẫu nhiên và không có suy tính trước. Sự cần thiết cho họa sĩ trường phái dã thú là màu sắc, chứ không phải vẽ như thấy trong thực tế, mà là phải sáng tạo sắc độ. Bức tranh là một bố cục nhiều màu, không phải là sự sao chép thiên nhiên; là sự liên tục tạo hình sống động, không phải là cảnh sắc vặt vụn, là một sự bố cục màu sắc mạnh bạo, không phải là sự tình cờ đẹp mắt.” Hàn Tử Ngang vừa nói vừa tiếp tục ăn chè khoai, cứ như ăn chè khoai mới là thú vui lớn nhất trên đời.
Ngay sau đó, anh tiếp tục giơ cái bát trống trơn về phía Hoa Lạc Lê. Hoa Lạc Lê trong lòng có chút ai oán - Trời đất! Tiểu tử thối này định biến cô thành mẹ và người hầu của anh ta chắc.
“Bức này là...?” Hoa Lạc Lê lấy ra mấy bức tranh khác.
“Những bức đó vẽ theo trường phái ấn tượng. Bậc thầy của trường phái ấn tượng này gồm có Van Gogh, Gauguin, Cezanne.” Hàn Tử Ngang chỉ vào bức tranh giải thích.
“Anh... anh thích vẽ lắm à?” Hoa Lạc Lê không thể không thừa nhận, tên tiểu tử thối mà cô ghét nhất này là một tài năng hội họa.
Lẽ nào, cả hai anh em nhà này đều là những người siêu phàm? Hàn Tử Hiên thần đồng thiếu niên cô đã sớm được thấy rồi. Nhưng Hàn Tử Ngang lại giống như một đứa trẻ nhạy cảm và tinh tế cho dù anh có cái nhìn sâu sắc trước mọi việc nhưng ánh mắt anh thì mãi mãi giữ được vẻ trong sáng như ánh mắt của trẻ nhỏ.
“À, trước đây, khi không có ai bên cạnh, anh thường vẽ để giết thời gian.”
Hoa Lạc Lê ngắm nghía những bức tranh rất lâu. Mười lăm lăm trước, Hàn Tử Ngang bốn tuổi đã bắt đầu vẽ tranh. Đó là một bức chân dung cả gia đình, có bố, mẹ và cậu em Hàn Tử Hiên.
Năm tuổi, Hàn Tử Ngang vẫn tiếp tục vẽ tranh, trong tranh không có Hàn Tử Hiên.
Mười tuổi, chỉ có một mình anh, cô độc một mình, bị vứt bỏ lại. Anh cô đơn ôm con búp bê SD ngồi trên cát, miệng mím chặt, mắt ươn ướt, trên bức tranh rơi đầy nước mắt buồn thương.
Người trong tranh năm sau lại ít hơn năm trước. Cuối cùng chỉ còn lại phong cảnh. Là phong cảnh ở rất nhiều nơi khác nhau.
Hoa Lạc Lê nhìn những bức tranh, trong lòng có chút chua xót, một cảm giác buồn khó gọi thành tên. Có lẽ là do cô thấy đồng cảm, cô từ nhỏ đã là một đứa trẻ không có mái ấm gia đình, có những nỗi buồn chỉ biết âm thầm chịu đựng trong lòng.
Đây chính là lý do vì sao anh chàng này bốn tuổi đã gắn bó với đàn thiên nga. Đều là hoàn cảnh tạo nên.
“Này, Hàn Tử Ngang, anh có thể dạy cho tôi một chút về vĩ cầm được không?”
“Dạy phần nào?”
“Là phần bấm dây, tôi vẫn còn có chỗ chưa hiểu lắm.”
Lạc Lê lấy cây đàn ra, chinh lại tư thế, cây vĩ cầm màu cam rực rỡ trên tay cô. Hàn Tử Ngang đưa tay vuốt nhẹ lên cây đàn, ánh mắt sâu thẳm, dường như suy nghĩ của anh đang lạc đến một miền xa nào đó.
Hàn Tử Ngang cẩn thận quan sát tư thế chơi đàn của Hoa Lạc Lê một lượt, giúp cô chỉnh lại cánh tay một chút, nghiêm khắc nói: “Kĩ thuật bấm dây đã nói rất kĩ với em lần trước rồi, thật là ngốc, muốn anh nói đến mấy lần nữa đây. Kĩ thuật bấm dây quan trọng nhất là vị trí ngón cái tay phải, ngón trỏ và ngón út đặt nhẹ ở trên dây cung, cảm nhận độ rung của dây”.
“Anh chơi vĩ cầm lâu rồi, nhạc lí đều đã học qua. Tôi bây giờ mới học, đương nhiên không thể thông thạo như anh ngay được. Hừm! Anh không thể chỉ bảo nhẹ nhàng hơn được hay sao?” Cô còn chưa nói hết câu, tên tiểu tử Hàn Tử Ngang chết tiệt đã thẳng tay vặn lại cánh tay cô, coi như một sự trừng phạt.
Hoa Lạc Lê bặm môi, trợn mắt lườm Hàn Tử Ngang - tiểu tử thối này không phải đang báo thù cái cốc đầu lúc trước của cô đấy chứ? Kết quả, anh lại nói một câu làm cô muốn phát hỏa:
“Da của em mềm thật đấy, giống như kẹo bông, xốp mềm ngọt ngào…”.
“Anh...”
Hàn Tử Ngang đáy mắt mờ nước, anh vô thức đi vòng qua phía sau cô, đỡ lấy tay cô, giúp cô điều chỉnh vị trí ngón tay trên dây đàn.
Hơi thở ấm áp của anh mơn man trên cổ cô nhột nhột, anh nói khẽ: “Nhìn thấy không? Nếu tay em bấm vào phần cuối dây này, âm thanh tiếng đàn phát ra sẽ vang hơn khi đặt ở phần đầu rất nhiều”.
Anh tiếp tục hướng dẫn cô sử dụng vĩ đàn. Hoa Lạc Lê thấy mặt đất hình như đang chao nghiêng, mùi thơm trên cơ thể anh phảng phất trước mũi cô, mùi nước hoa Versace trộn lẫn với hơi thở ấm áp, cho cảm giác ngọt ngào và nam tính.
“Còn nữa, em phải để cơ thể thả lỏng, hai chân đứng rộng bằng vai, cơ thể cân bằng, hai vai buông tự nhiên, chân trái khẽ bước lên một chút. Nhìn đây, cây vĩ cầm phải đặt chính giữa xương đòn vai trái, vai trái nhích lên trên một chút để đàn được giữ chắc ở vị trí giữa vai và hàm. Hướng cần đàn bằng với hướng mắt nhìn thẳng. Đặt cần đàn vào giữa khe ngón tay cái và ngón tay trỏ. Đầu ngón tay hướng vào dây đàn, cùi chỏ vuông góc và khép hơi sát vào thân, tránh dang rộng ra ngoài... Đó là những điều cần đặc biệt chú ý.”
Hoa Lạc Lê nắm chặt tay, lòng bàn tay toát mồ hôi, anh đứng gần cô quá. Vì chiều cao hơn hẳn của anh so với cô, cho nên Hoa Lạc Lê chỉ có thể nhìn thấy yết hầu của Hàn Tử Ngang không ngừng chuyển động lên xuống khi anh nói. Giọng nói của anh vang lên đầy mê hoặc.
“Còn điều này nữa. Tay trái của em phải đặt trên cổ đàn, giữ cổ đàn cao ngang với mũi của em.” Hàn Tử Ngang nâng tay cô lên, tiếp tục bổ sung.
Hoa Lạc Lê chỉ khẽ gật đầu. Trời đất, chân cô sắp khuỵu xuống rồi. Anh ta đứng sát bên cô, không chút khoảng cách.
“Hiểu thế nào về liên cung, thế nào là âm đơn, thế nào là hợp cung không? Kéo anh nghe thử xem nào!”
Hàn Tử Ngang đương nhiên không biết được Hoa Lạc Lê trong lòng đang nghĩ gì, càng không biết cô đang lúng túng đến thế nào, tiếng anh vẫn ngọt ngào bên tai cô. Từng lời từng lời nhẹ nhàng như hoa bồ công anh ngoài cánh đồng tung bay trong gió, từng bông từng bông trắng muốt bay lên, bay lên.
“Tôi... tôi bây giờ... vẫn chưa nắm được hết...”
Giọng Hoa Lạc Lê có chút run run, giống như lá cây theo gió rụng xuống mặt hồ bị những gợn sóng hồ xoay vòng trên mặt nước.
“Vậy khả năng nghe của em có tốt không? Liên dây là một dây có thể kéo ra nhiều giai điệu, song âm là hai dây đồng thời phát ra âm thanh, âm thanh rõ nét và vang vọng. Hợp âm là ba hoặc bốn dây cùng phát ra âm thanh, âm thanh dày, mạnh mẽ. Các kỹ thuật kéo như spiccato và staccato các cung được nẩy lên như đàn dương cầm tạo ra chuỗi âm thanh sống động. Tùy vào bàn tay kéo vĩ mà âm thanh phát ra từ đàn sẽ mang màu sắc khác nhau, có khi sống động, tươi vui, có lúc trầm ngâm, khi huyền bí.”
Nói đến không khí huyền bí, Hoa Lạc Lê không khỏi cảm thấy nhột nhột trên cổ. Trời ơi, sao anh không đứng cách xa ra một chút.
“Ngoài kéo vĩ em còn có thể gẩy đàn. Kĩ thuật gẩy trên dây đàn được gọi là pizzicato hoặc pizz. Tay phải giữ chắc vĩ và gẩy bằng ngón giữa. Âm thanh tạo ra có chút mơ hồ, có thể biểu hiện sự yên tĩnh, mênh mông hoặc dựng lại không khí thanh khiết dưới ánh trăng, âm thanh nhẹ, dịu lúc này có thể dệt nên một thế giới mộng ảo.”
Nói xong Hàn Tử Ngang giành lấy vĩ, kéo cho cô nghe thử, hết lần này đến lần khác với những kĩ thuật kéo, gẩy khác nhau. Mồ hôi trong lòng bàn tay Hoa Lạc Lê toát ra càng lúc càng nhiều, không thể khống chế được. Bàn tay Hàn Tử Ngang to và dày, mạnh mẽ, có lực, một cách chậm rãi, từ từ điều chỉnh bàn tay kéo vĩ của cô.
Anh chầm chậm buông tay cô ra. Cuối cùng Hoa Lạc Lê cũng đã có thể thở phào nhẹ nhõm.
Hàn Tử Ngang lúc này cũng đang cố kiềm chế cảm xúc, mùi hương hoa hồng thanh khiết trên cơ thể cô thật khiến người ta mụ mị. Anh cười cười trấn tĩnh, đi vào trong phòng mang ra cho cô một số đĩa CD và sách âm nhạc.